- Đền Hùng - Tâm linh nguồn cội

Tìm Hiểu Hùng Kính Vương - vị Vua Hùng thứ 19

Theo truyền thuyết và lời kể lưu truyền trong dân gian thì triều đại đầu tiên của nước ta có 18 đời vua đều xưng hiệu là Hùng Vương nên được gọi là triều Hùng của nước Văn Lang. Chính vì thế không mấy ai được nghe nói tới vị vua Hùng thứ 19 bởi nguồn tư liệu hiếm hoi và ít được phổ biến.



Khái lược về thân thế Hùng Vương thứ 19
Trước tiên nói về con số 18 đời vua Hùng, theo các tài liệu chính sử thì sách "Đại Việt sử lược" là tác phẩm đầu tiên đề cập tới và dường như dữ kiện đó được nhiều tác phẩm sử học, khảo cứu sau này ghi chép theo, thậm chí các tác phẩm ở dạng diễn ca cũng viết:
Bể dâu biến đổi cơ trời,

Mà so Hồng Lạc lâu dài ai hơn.
Kể vua mười tám đời truyền,
Hai ngàn năm lẻ vững bền khôn lay.
Một dòng Phụ đạo xưa nay,
Trước ngang Đường đế sau tày Noãn vương.
(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Thật khó có thể xác định sự thực có đúng là triều Hùng gồm 18 đời vua hay 18 ngành vua với mỗi ngành gồm nhiều đời, nhưng theo các nhà nghiên cứu thì đây chỉ là con số mang tính chất biểu tượng có tính ước lệ mà thôi, có ý kiến cho rằng với người Việt số 9 là con số thiêng nên các bội số của nó như số 18 cũng thiêng tương tự như vậy…

Về đời vua Hùng thứ 19, rất ít tài liệu nhắc đến; trong các bản thần tích, ngọc phả về các đời vua Hùng thường chỉ nói đến vị vua cuối cùng là Hùng Duệ Vương (vua Hùng thứ 18), thí dụ trong bản Ngọc phả cổ truyền về 18 chi đời Thánh vương triều Hùng viết rằng vua Hùng thứ 18 (Hùng Duệ Vương) chỉ sinh được hai người con gái “đức hạnh trinh hiền, phong tư tuấn nhã” tên là Tiên Dung và Ngọc Hoa.


Một số tư liệu chép về truyền thuyết thời Hùng Vương cho biết thêm rằng, Hùng Duệ Vương có nhiều con gồm cả trai lẫn gái, nhưng các quan lang (hoàng tử) và mị nương (công chúa) đều mất sớm, chỉ còn hai người con gái, “một người là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa gả cho Chử Đồng Tử hóa tiên bất diệt, một là Mỵ Nương Ngọc Hoa công chúa gả cho Tản Viên Sơn Tinh” (Theo Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền).

Bản Thần tích xã Vi Cương (Phú Thọ) ghi chép khá rõ về các đời vua Hùng với những thông tin thú vị liên quan, về đời vua Hùng Duệ Vương (chi thứ mười tám), bản thần tích cho biết vua tên húy là Huệ Lang, là vị vua ngành thứ 18 đời cuối cùng, Ngài đã từng truyền cho con trưởng nối ngôi xưng là Hùng Kính Vương nhưng vị vua này (Hùng Vương thứ 19) chỉ làm vua được 6 năm thì mất nên Hùng Duệ Vương lại lên làm vua lần thứ hai, về sau già yếu quá mới có ý cho con rể là Nguyễn Tuấn (Sơn Tinh, tức Tản Viên Sơn Thánh) kế vị nhưng vì Nguyễn Tuấn không nên vua đành giao cho ông tạm thay quyền trị quốc…

Bản thần tích có đoạn chép rằng: “Ban đầu truyền ngôi cho con trưởng là Kính Vương cai trị được 6 năm thì mất. Vua truyền cho rể hiền là Tản Viên Sơn nhiếp chính, thay mệnh vua cha chế định thiên hạ. Được 10 năm, cha con đồng lòng hóa thành thượng tiên chính giác, đại pháp thần nông, làm người tiên vạn cổ bất diệt, rồi nhường ngôi cho Thục An Dương Vương, cũng là tôn diệt Hùng Vương, là tông phái hoàng đế triều trước, là cháu 16 đời làm Bộ chúa phụ đạo”.


Những chuyện truyền kỳ về Hùng Kính Vương
Vì tư liệu nhắc đến Hùng Kính Vương (Hùng Vương thứ 19) rất ít nên chưa rõ có bản ngọc phả, hay thần tích nào cho biết những thông tin về vua như tên húy là gì, ngày sinh, ngày hóa… Tuy nhiên, dù chỉ cầm quyền trong 6 năm ngắn ngủi, nhưng những câu chuyện tản mạn còn truyền tụng đến ngày nay phần nào cũng cho thấy về công ơn đức độ của một vị quân vương triều Hùng.

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, thành ngữ là một bộ phận cấu thành quan trọng, có một câu thành ngữ mà xuất xứ của nó có liên quan đến chuyện về Hùng Kính Vương. Bấy giờ, một lạc dân ở Kẻ Đơi có con ngựa đen rất đẹp, viên Bồ chính ở Kẻ Đọi thích lắm, hắn cậy quyền thế cướp mất ngựa của người kia. Anh ta không biết làm sao, đành đến xin vua phân xử. Khi bị vua gọi đến, viên Bồ chính khăng khăng nói đó là ngựa của mình, lại nói rằng bị lạc dân vu oan. Vua Hùng Kính Vương truyền giữ lại con ngựa rồi cho hai người về nhà suy nghĩ một đêm, sau đó quay lại nghe vua phán quyết.

Chiều hôm ấy, vua thả con ngựa ra rồi Ngài âm thầm đi theo, con ngựa đi qua Kẻ Gát, Kẻ Nú rồi qua Kẻ Đọi về đến Kẻ Đơi vào chuồng cũ của người lạc dân kia ăn cỏ. Ngay sáng hôm sau, Hùng Kính Vương nói lại chuyện này rồi phán xử phần thắng thuộc về người Lạc dân, Ngài lại hạ lệnh bắt giam viên Bồ chính về ba tội: tham lam, cậy quyền thế cướp của và không thật thà, bất kính với bề trên. Tương truyền câu thành ngữ: “Ngựa quen đường cũ” được xuất phát từ câu chuyện này.

Một chuyện khác kể rằng, viên Phụ đạo hạt Gia Phong là kẻ tham lam, hắn tìm mọi cách vơ vét của cải, bóc lột lạc dân trong vùng mình quản lý khiến cho lời oán thán vang khắp chốn. Cũng từ đó trong hạt trộm cướp xảy ra, lại có những người vì khổ sở quá mà tụ tập nhau lại chống đối, viên Phụ đạo bèn đem quân trấn áp, bắt được một số người cầm đầu đem về kinh đô xét xử. Vua Hùng Kính Vương, nghe tin liền đến xem sự tình ra sao, khi bị kết án, những người kia đều kêu oan rồi đồng thanh tố cáo sự tham tàn của viên Phụ đạo. Thấy sự việc có điều uẩn khúc, đáng nghi, vua Hùng sai tạm hoãn thi hành hình phạt rồi cho người điều tra lại thì biết được sự thật, vua liền cho tha bổng những người oan khuất, khuyên họ về chăm việc cày cấy nông tang, còn viên Phụ đạo bị tống giam vào ngục.

Tài trí của Hùng Kính Vương còn thấy qua câu chuyện vua dùng ruồi để tìm ra kẻ sát nhân. Vụ án này tóm lược như sau: Có hai cha con người thợ sau khi tiền lĩnh công trở về nhà thì trời đã tối, khi qua Kẻ Nỏ đã gần nửa đêm, bất ngờ họ bị một kẻ cầm dao tấn công, người cha mẹ đâm chết, người con bỏ chạy thoát thân, khi quay lại thì đồ đạc mất hết, xác người cha cũng không thấy, chỉ còn lại vũng máu đông.

Để tìm ra thủ phạm, vua Hùng nghe theo lời một Lạc tướng cho bắt những người có nhà gần hiện trường vụ án nhưng không tra khảo đánh đập, sợ có người vì đòn đau mà nhận tội bừa. Nhà vua ra lệnh thu hết vật dụng đồ đồng, đồ sắt như dao, mác, thuổng… ở những ngôi nhà kia, phân rõ xem nó là của ai, sau đó sai người dùng lưới nhỏ bẫy rất nhiều ruồi đem nhốt vào lồng. Tiếp đến, vua cho lấy máu đông của người bị hại để vào lồng, đàn ruồi liền bu kín lại; rồi cục máu đông được đem ra, lần lượt những vật dụng bị thu giữ được đưa vào trong lồng. Khi thấy đàn ruồi đậu kín vào một con dao, Hùng Kính Vương ra lệnh bắt ngay chủ nhân của con dao đó, kẻ ấy sợ hãi đành phải thú nhận và chịu hình phạt vì tội ác của mình. Theo lời khai của hắn, vua Hùng cho dân chài buông lưới, thả câu tìm vớt xác người bị hại từ dưới sông đưa lên bờ an táng tử tế, lại thu giữ tang vật và một phần tài sản của kẻ thủ ác đem bồi thường cho con trai người thợ xấu số.

Ngoài những chuyện trên, dân gian còn truyền tụng một số mẩu chuyện khác về trí thông minh, tài xử án của Hùng Kính Vương, như chuyện Ngài phân xử đúng sai cho Tinh Thử (chuột thành tinh) và Tinh Hổ (hổ thành tinh); chuyện vua lập mẹo xử án Cao Sơn giả, Cao Sơn thật…

Tuy là người được xếp vào những vị vua trong huyền thoại, truyền thuyết, lại ít được nhắc tới nhưng Hùng Kính Vương vẫn có một vị trí trang trọng trong tâm thức dân gian. Cùng với các vị vua Hùng khác, Ngài được cháu con đời đời ghi tạc ân đức sâu dày mà “vạn năm hương hỏa”, suy tôn là “thượng đẳng tối linh” và nhắc nhở nhau:

Mở trang sử cũ lưu truyền,
Hùng Vương huyền thoại, muôn niềm ngợi ca.
Theo Kiến Thức

Chuyện ít biết về “ông nội” Vua Hùng
Tác giả: Theo Phạm Lý (Báo Giao thông)

Theo cách gọi của người dân làng Á Lữ, Bắc Ninh, Thủy tổ Kinh Dương Vương chính là “ông nội” của Vua Hùng. Sự thật có phải như vậy? Tại sao lại chọn ngày giỗ Hùng Vương làm ngày Quốc giỗ mà không lấy ngày giỗ của Kinh Dương Vương? Ảnh: Đền Kinh Dương Vương (thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Ảnh: Khánh Linh. Bánh chưng lớn nhất Việt Nam dâng cúng các vua Hùng

“Ông nội” của Vua Hùng là ai?
Khu Lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương nằm ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, Thuận Thành, Bắc Ninh. Đây được coi là nơi duy nhất ở Việt Nam còn nguyên dấu tích Kinh Dương Vương. Lăng mộ này không rõ được xây dựng từ bao giờ, hiện chỉ còn bia đá đề bốn chữ Hán: Kinh Dương Vương Lăng, thể hiện được trùng tu thời Minh Mạng nhà Nguyễn năm 1840. Trên lăng có hai chữ Hán: Bất Vong (không bao giờ mất).

Cách lăng mộ chừng 300 m là đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đền thờ hiện lưu giữ nhiều đạo sắc phong có niên đại từ năm 1810 – 1924 và một bức đại tự có chữ Đại Nam tổ miếu.

Tại Lăng Kinh Dương Vương có ghi: Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khỏe phi thường. Kinh Dương Vương hình thành Nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879 trước Công nguyên), đặt Quốc hiệu là Xích Quỷ (tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ), đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Hống, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Kinh Dương Vương lấy Thần Long sinh ra Lạc Long Quân (húy là Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra 100 người con. Con cả là Hùng Quốc Vương. Kinh Dương Vương tạ thế ngày 18/1 (không ghi năm – PV) tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay).

Cũng có cuốn sách ghi, vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông. Đế Minh truyền ngôi cho 2 con trai là Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Nghi làm Vua phương Bắc, Lộc Tục làm Vua phương Nam. Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương, lấy Quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi và xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và đẻ ra 100 người con. Lạc Long Quân phong cho con trai cả làm Vua và đóng đô ở đất Phong Châu (Phú Thọ ngày nay), lấy hiệu là Hùng Vương.

Như vậy, chỉ có một điểm tương đối thống nhất về Kinh Dương Vương, đó là xét về mặt thứ bậc, Ngài là “ông nội” của Vua Hùng”.

Chính vì theo truyền thuyết ấy, ngày nay, người dân Á Lữ, Bắc Ninh thường gọi Kinh Dương Vương là “ông nội” của Vua Hùng. Nếu tính cho đến năm nay, Á Lữ đã tổ chức lễ hội kỷ niệm 4.895 năm Đức Thủy Tổ mở nước, một dấu ấn huy hoàng của lịch sử nước nhà.

Không nên hiểu theo phả hệ của dòng họ
PGS.TS. Bùi Quang Thanh, Viện Văn hóa nghệ thuật VN, một trong những người tham gia khảo sát và xây dựng bộ hồ sơ về Tín ngưỡng thờ Hùng Vương trình lên UNESCO đã giải thích vì sao ngày giỗ Tổ lại chọn giỗ Vua Hùng chứ không phải chọn ngày giỗ Kinh Dương Vương?

“Theo truyền thuyết, Kinh Dương Vương là người thuộc dòng dõi Thần Nông ở phương Bắc (trong đất Bách Việt) sinh ra, sau đó truyền ngôi cho Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đã kết duyên cùng Âu Cơ, sinh ra một bọc trăm trứng, nở ra 100 người con trai. Người con trưởng Hùng Vương được lên ngôi, lập ra Nhà nước Văn Lang đầu tiên của chúng ta, đóng đô ở Nghĩa Lĩnh – Việt Trì. Bởi vậy, người có công đầu tiên lập ra Nhà nước chính thống đó đã được cộng đồng tôn vinh là cội nguồn quốc gia, suy tôn là Quốc tổ, lấy ngày mất tương truyền làm ngày Quốc lễ – Quốc giỗ. Do vậy, không nên hiểu giỗ Tổ Hùng Vương là giỗ của vị tổ đầu tiên của người Việt, của dân tộc Việt Nam”, ông nói.

Cũng theo PGS.TS. Bùi Quang Thanh, lịch sử bất cứ nước nào cũng bắt đầu từ kho tàng huyền thoại và truyền thuyết. Kinh Dương Vương hay Lạc Long Quân, Âu Cơ đều là nhân vật huyền thoại. Việc ghi nhớ đến những nhân vật này là sự tưởng niệm đến nguồn gốc xa xưa của tổ tiên, của cội nguồn dân tộc. Việc tìm thấy những khu lăng mộ cũng đều là chứng tích của những huyền thoại được các thế hệ về sau lịch sử hóa.

“Trong Đại Việt sử kí toàn thư, Ngô Sĩ Liên đã xếp vào phần ngoại kỷ chứ không phải lịch sử chính thống. Vì đây là những nhân vật thần thoại chứ không phải nhân vật lịch sử, kể ra mang tính biểu tượng, để giải thích ra cuội nguồn dân tộc. Chính vì thế, chúng ta không nên hiểu như phả hệ của một dòng họ”, PGS.TS. Bùi Quang Thanh nói.

Trước câu hỏi, Kinh Dương Vương có phải là “ông nội” của Hùng Vương hay không, PGS.TS. Phạm Văn Khoái, Chủ nhiệm Bộ môn Hán Nôm, Đại học KHXH&NV Hà Nội cho biết, tất cả nhân vật như Vua Hùng, Kinh Dương Vương đều là những nhân vật huyền thoại để nói về cội nguồn của dân tộc và khi đã là huyền thoại thì không thể giải thích bằng logic ý chí. “Kinh Dương Vương là nhân vật huyền thoại, không có thật.

Đến thế kỉ XV, lần đầu tiên được Ngô Sĩ Liên đưa vào Ngoại kỷ của Đại Việt sử kí toàn thư. Gọi Kinh Dương Vương là “ông nội” của Vua Hùng, đây là tư duy logic của thời bây giờ. Tuy nhiên, chúng ta không lấy tư duy hiện đại để áp vào lịch sử. Không nên gọi Kinh Dương Vương là “ông nội” của Vua Hùng”.

Theo nhà sử học Dương Trung Quốc, hiện nay có một số địa phương phát huy lễ giỗ Thủy tổ Kinh Dương Vương và đó là tập tục của địa phương. Tuy nhiên, quan điểm của ông chỉ dừng lại thời Vua Hùng, không nên tìm hiểu sâu về chuyện “ông nội” của Vua Hùng. Ông Quốc cho là không cần thiết. “Nếu lần ngược lên không biết đi đến đâu cả”, nhà sử học Dương Trung Quốc cho hay.

http://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/chuyen-it-biet-ve-ong-noi-vua-hung-c46a783668.html

Video ghi lại một số hình ảnh tại Lễ hội Đền Hùng 2015.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét