- “Mưu Độc Ngàn Năm” Của Tầu - Hãy Truyền Đời Cho Con Cháu

“Mưu Độc Ngàn Năm” Của Người Tầu

Trong mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương Bắc, từ năm 1046 ttl, người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.

1.Từ Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng đến Cột Đồng Mã Viện Hậu Thế Đã Có Những Nhận Xét Gì Về Những Biến Cố Này?

“Đồng trụ chiết, Giao Chỉ Diệt”
Mã Viện
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi ngàn thu.
Đặng Văn Bá (1877 - 1942)

Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên Hoàng Cao Khải (1850 - 1933)



Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của người Việt nhằm đánh đuổi người Tầu, giành lại nền độc lập cho dân tộc sau một trăm năm mươi năm nước ta bị Nhà Hán đô hộ.

Cuộc khởi nghĩa này rất quan trọng vì nó không phải chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé, xa xôi, tương xứng với hai huyện Mê Linh và Châu Diên thuộc quận Giao Chỉ mà thôi mà được toàn thể các quận huyện khác từ Cửu Chân ở phía nam tới Hợp Phố trên lãnh thổ Trung Hoa hiện tại ở phía bắc hưởng ứng. Nó đã làm rung động triều đình Nhà Hán, khiến cho Nhà Hán phải cử viên lão tướng danh tiếng nhất đương thời là Mã Viện sang đánh và phải mất hai năm dài sửa soạn mới phản công được. Chưa hết, cuộc phản công này cũng đã vô cùng gian nan, vất vả chứ không dễ dàng như người ta tưởng. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng do đó đã được dành cho những chỗ đứng vô cùng quan trọng trong lịch sử và văn học nước nhà. Bài này nhằm giới thiệu đến các độc giả một số những nhận định của các sử gia và các nhà trí thức sau này về Hai Bà. Tuy nhiên, để các bạn trẻ có thể dễ dàng có những nhận định riêng và chính xác của mình, tác giả cũng xin được tóm tắt những sự kiện chính cần biết về cuộc khởi nghĩa này và đặc biệt về cuộc kinh lý của Mã viện sau đó cũng như việc Mã Viện dựng cột đồng cắm mốc kèm theo lời nguyền vô cùng độc ác: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của viên tướng nổi tiếng qua tước hiệu Phục Ba Tướng Quân trong lịch sử Trung Hoa này. Chuyện người Tầu chủ trương tiêu diệt người Việt như vậy đã xảy ra từ cách đây cả hai ngàn năm trước chứ không phải đợi đến tận ngày nay, dưới thời hai nước Cộng Sản anh em.

Cuộc Khởi Nghĩa
Nguyên nhân
Theo các sử cũ của ta, nguyên nhân của cuộc khởi nghĩa này là sự tham tàn của Thái Thú Tô Định và việc Tô Định giết chồng Bà Trưng Trắc là Thi Sách. Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu hiện đại [1] đã đưa ra nhiều nguyên nhân sâu xa hơn và đã giải thích cặn kẽ hơn, theo đó ta có thể kể:
Nguyên nhân sâu xa: Những sự thay đổi trong chính sách cai trị của người Tầu và những sự va chạm về quyền lợi giữa người Tầu và người Việt trong những năm đầu của Thế kỷ Thứ Nhất Sau Tây Lịch. Những biến cố này đã xảy ra khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán (9-23 sau T. L.). Một số đông các quan lại và Nho Sĩ người Tầu, vì trung thành với Nhà Hán, không chịu phục vụ triều đình mới đã dời bỏ miền Bắc di cư xuống ẩn náu ở các quận miền Nam thuộc Giao Chỉ Bộ. Tại đây, nhờ Thứ Sử Đặng Nhượng và các thái thú các quận như Tích Quang, Đỗ Mục đóng cửa các miền biên cảnh để phòng giữ nên tình hình rất yên tĩnh. Sự di cư xuống miền Nam của những thành phần này đã làm tăng thêm con số người Tầu tới lập nghiệp ở các quận huyện miền Nam. Chúng đã giúp cho kỹ thuật, ngôn ngữ và văn hóa của người Tầu được phổ biến kèm theo với sự phát triển của nền kinh tế bản xứ, nhưng mặt khác đã gây ra những va chạm về địa vị, quyền lợi và phong tục giữa họ và người dân bản xứ, đặc biệt là các nhà quý tộc. Trong hoàn cảnh này chắc chắn họ đã góp những phần không nhỏ vào sự hoạch định và thi hành các chính sách đồng hóa của các quan lại địa phương như Tích Quang và Nhâm Diên, nhờ thủ đoạn khôn khéo của hai viên thái thú này đã trấn áp được nhân tâm người Lạc Việt, từ đó không có gì nghiêm trọng xảy ra. [2]Tình hình đã thay đổi khi Tô Định xuất hiện.
Nguyên nhân trực tiếp: Sự tham lam, tàn bạo của Thái Thú Tô Định và việc viên thái thú này giết Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc. Đây là nguyên nhân chính mà sử cũ của ta và sử của Nhà Hán thường nói đến: Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Kiến Võ thứ 16, Nhà Đông Hán cử Tô Định sang làm thái thú quận Giao Chỉ. Là người tham lam, tàn bạo[3], Tô Định đã triệt để dùng luật pháp để ràng buộc người dân bản xứ, đặc biệt là giới quý tộc, sau đó lại giết Thi Sách, người huyện Châu Diên[4] là chồng Bà Trưng Trắc, con gái vị Lạc Tướng của huyện Mê Linh. Sự giết Thi Sách nà có lẽ nhằm mục đích diệt các mầm mống khởi nghĩa của người Lạc Việt ngay từ trong trứng nước, đặc biệt là của hai nhóm quý tộc lớn ở Châu Diên và Mê Linh. Nó đã trực tiếp châm ngòi cho cuộc tổng nổi dậy.

Cuộc khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa đã xảy ra và đã thành công một cách mau chóng. Trưng Trắc đã cùng với em là Trưng Nhị tấn công thành Liên Lâu, nơi Tô Định đóng trị sở và đã chiếm được thành này, khiến Tô Định phải bỏ chạy về Nam Hải. Đại thắng này đã đưa tới sự hưởng ứng của tất cả dân chúng các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố. Hai Bà đã thu được cả thảy 65 thành trì trong vùng Lĩnh Nam và tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh. Các thứ sử và thái thú chỉ chạy được thoát thân mà thôi.
Phản ứng của Nhà Đông Hán – Cuộc tái xâm lăng của Mã Viện
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng như vậy không phải chỉ là một cuộc nổi dậy ở một địa phương thuộc quận Giao Chỉ mà thôi mà là cuộc tổng nổi dậy của toàn thể nhân dân các thuộc địa miền Nam của Nhà Hán chạy suốt từ Cửu Chân, Nhật Nam trên lãnh thổ Việt Nam hiện tại cho đến Hợp Phố trên lãnh thổ Trung Hoa. Nó đã làm rung động triều đình Trung Hoa. Mọi cố gắng của địa phương để phục hồi uy quyền của các quan lại Nhà Hán đều không thể thực hiện được. Ngay cả triều đình trung ương của họ cũng phải bó tay ít ra là trong suốt hai năm đầu. Trong hai năm này họ đã cho sửa soạn một cuộc tái xâm lược các thuộc địa đã mất một cách hết sức quy mô và kỹ càng. Các quận huyện từ Trường Sa trở xuống đã được lịnh dự bị xe cộ, thuyền bè, đào nương, bắc cầu để vượt qua các khe núi và trữ sẵn lương thực. Đến tháng 12 năm Kiến Võ thứ 17 (tháng Giêng năm 42 sau T. L.), Mã Viện, viên lão tướng danh tiếng nhất của triều đình Nhà Hán đương thời, người vừa mới thành công trong việc dẹp loạn Lý Quảng ở Hoãn Thành, An Huy, được phong làm Phục Ba Tướng Quân để đem quân tái chiếm lại Giao Chỉ. Phụ tá cho Mã Viện có Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó và Đoàn Chính làm Lâu Thuyền Tướng Quân.
Đại quân của Mã Viện gồm hơn mười ngàn người lấy ở các quận Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô, mười hai ngàn người lấy ở các quận thuộc Giao Chỉ Bộ và thuyền xe lớn nhỏ hai ngàn chiếc. Bộ binh theo đường từ Hồ Nam xuống địa phận của các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hiện tại để hợp với thủy quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Nhưng đến đây thì Đoàn Chí bị bịnh chết. Hán Đế hạ chiếu cho Mã Viện men theo bờ biển để tiến quân. Theo các sử gia hiện đại thì viên tướng này có thể đã theo đường Quảng Yên để vào miền lưu vực Sông Thái Bình, trong khi lâu thuyền có lẽ đã theo đường Sông Bạch Đằng kéo vào. Cuộc tiến quân không mấy gặp trở ngại. Sự kháng cự chỉ thực sự bắt đầu khi quân Hán tới địa phận Tây Lý (Vu) là căn cứ của An Dương Vương xưa kia, sau đó đã mỗi ngày một trở nên ác liệt khiến Mã Viện phải rút quân về miền giữ Tây Lý và Lãng Bạc. Tình cảnh quân Nhà Hán vào lúc này, theo như chính lời Mã Viện kể lại , vô cùng gian nan vất vả: “Quân địch chưa dẹp yên. Trên thì mưa, dưới thì lụt. Mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt. Trông lên thất con diều đương bay bỗng rớt xuống nước chết” [5]. Tất cả chỉ chấm đứt khi quân Hai Bà từ Mê Linh kéo ra đại tấn công quân Mã Viện ở Lãng Bạc và bị thất bại. Hai Bà sau đó phải rút quân về Cấm Khê. Tại đây theo Lưu Long Truyện chép trong Hậu Hán Thư, Trưng Nhị đã bị viên phó tướng này bắt sống. Còn theo Mã Viện Truyện, cũng chép trong Hậu Hán Thư, thì Mã Viện đã đánh bại nghĩa quân thêm ít trận nữa. Cuối cùng tháng Giêng năm sau chém được cả Hai Bà, gửi đầu về Lạc Dương.
Theo dã sử của ta, Hai Bà đã trầm mình xuống Sông Hát Giang tự tận. Cuộc hành quân của Mã Viện đến đây chưa chấm dứt, vì sau đó viên tướng này còn phải tiến sâu xuống Cửu Chân để dẹp tàn quân của Hai Bà do Tướng Đô Dương cầm đầu. Sự chống cự vô cùng mãnh liệt. Mã Viện đã phải thống suất lâu thuyền lớn nhỏ hơn hai ngàn chiếc, sĩ tốt hơn hai vạn người tấn công quân Đô Dương suốt từ huyệnVô Công đến huyện Cư Phong, chém và bắt được hơn hai ngàn người.

Những cải tổ thâm độc của họ Mã
Song song với cuộc đàn áp các thành phần còn lại của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tàn sát hàng ngàn người Việt ở hai huyện Vô Công và Cư Phong thuộc quận Cửu Chân, Mã Viện đã tức thời thực hiện những công tác củng cố lại quyền kiểm soát và cải tổ lại toàn bộ chính sách cai trị của Nhà Đông Hán. Ông đã cho dựng hay dựng lại những thành quách, đặt quân đội trú đóng để phòng ngừa những cuộc nổi dậy khác, đặt tỉnh ấp, đặc biệt là dựng thành Kiển Giang ở Phong Khê [6]. Các đơn vị hành chánh cũng được phân chia lại, điển hình là huyện Tây Vu. Huyện này có tới ba vạn ba ngàn (33.000) nhà nên đã được Mã Viện xin với vua Nhà Hán chia làm hai huyện nhỏ là Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán đã chấp thuận. Quan trọng hơn nữa, ông đã tổ chức lại guồng máy hành chánh bằng cách áp dụng lối tổ chức như bên chính quốc, nhằm loại trừ giới quý tộc bản xứ, điển hình là các lạc hầu, lạc tướng. Giới này một phần bị tàn sát, một phần phải bỏ chạy lên các vùng rừng núi. Hàng trăm gia đình khác đã bị đầy sang Hoa Nam Phần còn lại bị tước đoạt hết những ưu quyền và vai trò của thời cũ. Riêng chỉ những thành phần lãnh đạo cấp dưới, tương đương với các làng xã là còn tồn tại nhưng bị lệ thuộc chặt chẽ vào chính quyền trung ương. Những người này đã phải hòa đồng với các thành phần cai trị khác từ chính quốc sang hay các di dân người Tầu, từ đó một thứ quý tộc bản xứ mới đã nảy sinh và sẽ đóng những vai trò quan trọng trong những biến cố về sau này. Về mặt luật pháp, Mã Viện đã tiếp tục những gì các quan lại Nhà Hán đã làm trước đó là đem luật của người Tầu áp dụng vào xã hội của người Việt, buộc người Việt phải theo pháp luật Tầu. Ông đã tâu lên Vua Hán về mười điều khác biệt giữa luật của người Tầu và luật của người Việt, đã đem luật Tầu dạy cho người Việt. Về phương diện kinh tế, trong thời gian hành quân, Mã Viện đã cho xẻ núi, đào sông, đắp đường, từ đó đã giúp cho sự giao thông giữa các địa phương được trở nên dễ dàng hơn.
Toàn bộ các ông trình kể trên của Mã Viện đã được hoàn thành vào cuối năm 43 và năm sau thì ông về nước mang theo rất nhiều trống đồng Lạc Việt, sau khi đã dựng những cột đồng làm ranh giới.

Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt

Về vị trí của những cột đồng này, người ta không được rõ một cách chính xác. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì Mã Viện đã dựng những cột đồng này sau khi đã thanh toán được những tàn quân của Hai Bà do Tướng Đô Dương chỉ huy ở Cửu Chân “làm giới hạn cuối cùng của Nhà Hán”. Như vậy những cột đồng này phải nằm ở phía nam của huyện Cư Phong thuộc quận Cửu Chân. Nhưng ngay sau đó, cũng trong sách này người ta lại đọc được là “cột đồng tương truyền là ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu”.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép việc dựng cột đồng đằng sau câu nói về việc Mã Viện hàng phục được Tướng Đô Dương và tàn quân của Hai Bà ở Cư Phong. Sau đó các tác giả của bộ sử này lại dẫn theo tác phẩm Thủy Kinh Chú của Lịch Đào nguyên cho biết Mã Viện đã dựng kim tiêu tức cây nêu bằng kim loại làm ranh giới cực nam của nước Tầu, cùng nhiều sách khác tương tự bên cạnh bộ Nhất Thống Chí của Nhà Thanh nói về cột đồng ở động Cổ Sâm ở Khâm Châu. Như vậy ta có thể nghi Mã Viện dựng nhiều cột đồng ở hai địa điểm khác nhau, một ở cực nam của Giao Chỉ bộ thuộc huyện Cư Phong và một ở Khâm Châu phía bắc để đánh dấu miền đất mà ông đã tái chinh phục được. Riêng ở địa điểm thứ hai này, ông đã ghi câu thề “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt) khiến cho người dân Việt mỗi khi đi qua lại lấy đá chất vào thành gò đống vì sợ cột gẫy.
Một nhận xét khác cần được nêu lên ở đây là Mã Viện đã lấy đồng ở đâu ra để đúc các cột đồng này? Phải chăng đó là từ các đồ đồng của dân Lạc Việt trong đó có các trống đồng mà viên tướng này đã đem một số về Tầu? Điều này chứng tỏ là ở thời này văn minh đồ đồng của người Lạc Việt đã phát triển rất mạnh và Mã Viện trong khi hành quân đã tịch thu được rất nhiều đồ đồng của các nhà quý tộc bản xứ. Những đồ đồng này có thể do không dủng làm gì được vì người Tầu hồi đó đã dùng toàn đồ sắt, hoặc có thể là vì những trống đồng là biểu trưng cho quyền uy của các nhà quý tộc nên phải bị tiêu hủy, do đó đã được đem nấu chảy để làm cột đồng dựng ở hai điểm trọng yếu làm mốc cho những miền đất của người Lạc Việt cũ mà Mã Viện đã tái thu phục được, coi như những biểu tượng của chiến thắng vĩ đại của mình và của người Tầu, bên cạnh sự tan biến và bị tiêu diệt hoàn toàn của uy quyền và thế lực của giới quý tộc bản xứ. Vấn đề, tuy nhiên, còn cần được khảo cứu tường tận hơn vì rất có thể tất cả chỉ là truyền thuyết, vả lại vị trí của các cột đồng này đã không cố định mà đã di chuyển theo ranh giới phương nam của đế quốc Trung Hoa.


Tầm quan trọng lớn lao và hậu quả của cuộc khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của người Việt chống lại chế độ đô hộ của người Tầu, giành độc lập cho dân tộc. Cuộc khởi nghĩa này thường được coi như biểu dương cho tinh thần bất khuất của dân tộc ta trước sự tràn lấn thường trực và vô cùng mãnh liệt của Hán Tộc và khả năng lãnh đạo của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam thời cổ. Một mặt khác, như trên đã trình bày, đó không phải là một cuộc nổi dậy nhỏ, giới hạn trong một địa phương mà là một cuộc khởi nghĩa có quy mô rộng lớn bao trùm tất cả các quận thuộc Giao Chỉ Bộ từ Hợp Phố trở xuống. Nó đã làm rung động Triều Đình Nhà Hán. Những cố gắng phản công của triều đình này đã chỉ xảy ra sau hai năm dài sửa soạn và cuộc tái xâm lược mặc dầu được đặt dưới sự chỉ huy của vị lão tướng nổi danh nhất đương thời, đã không được thực hiện một cách mau chóng.
Về hậu quả, mặc dầu không hoàn toàn thành công, cuộc khởi nghĩa của Hai Bà đã thức tỉnh tinh thần dân tộc của người Việt sau ngót một trăm năm mươi năm sống an phận dưới sự thống trị của người Tầu và trước đó của Nhà Triệu. Sự thương tiếc và tôn kính của người Việt đối với Hai Bà đã được biểu lộ trong việc lập đền thờ Hai Bà hay âm thầm trong đáy lòng của mỗi người đã trở thành một sự nhắc nhở thường trực về sự khác biệt giữa hai chủng tộc cũng như về khả năng đấu tranh của người Việt. Nó đã ảnh hưởng rất lớn lao tới các cố gắng khởi nghĩa của dân ta về sau này. Cuối cùng là chủ trương và nỗ lực cải tổ của Mã Viện trong tổ chức cai trị ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Những cải tổ này đã đưa tới sự kiểm soát các sinh hoạt của người bản xứ một cách trực tiếp, chặt chẽ hơn và đã làm cho văn hóa của người Tầu được truyền bá sâu rộng hơn trong quần chúng Giao Chỉ. Vai trò của giới quý tộc thời xưa không còn nữa. Chế độ có thể gọi là bảo hộ giống như các chế độ của người Tây Phương ở các thuộc địa của họ sau này đã hoàn toàn bị thay thế. Các quan lại người Tầu trong chiều hướng này đã mặc tình thao túng với sự ủng hộ nhiệt tình của các di dân của họ. Tình trạng này đã được phản ảnh một phần nào qua nhận xét của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca khi hai tác giả này viết:
Trưng Vương vắng mặt còn ai,
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.


Lịch sử dân tộc Việt Nam từ sau năm 43 đã rẽ sang một hướng khác hẳn trước. Đây mới là điểm thực sự quan trọng của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nó cũng nói lên tham vọng và chủ trương thâm độc cố hữu của người Tầu đối với dân tộc Việt Nam, dân tộc ngay từ đầu đã đóng vai trò nút chặn, ngăn cản con đường Nam tiến của họ xuống các vùng Đông Nam Á, Úc Châu và Ấn Độ Dương, một vị trí địa lý chiến lược vô cùng quan trọng trong bất cứ thời đại nào.

Hậu thế đã có những nhận xét gì về Hai Bà Trưng
Trước hết là các sử gia: Các sử gia Việt Nam ngay từ những ngày đầu cho tới Thế Kỷ 19, kể cả Vua Tự Đức, người đã ra lệnh soạn thảo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, và sau này là Trần Trọng Kim, tác giả Việt Nam Sử Lược, bộ sử gối đầu giường, đã được dủng làm sách giáo khoa cho nhiều thế hệ hiện đại, đã dành cho Hai Bà Trưng những cảm tình đặc biệt, nếu không nói là những lời tán dương đẹp đẽ nhất mà người cầm bút có thể viết được. Phan Bội Châu lại còn đi xa hơn nữa. Tác giả của Việt Nam Vong Quốc Sử và Việt Nam Quốc Sử Khảo đã đề nghị suy tôn Hai Bà Trưng làm tổ nước ta. Ông lý luận như sau:
Nước ta từ Trưng Nữ Vương về trước, bảo rằng không có người e rằng cũng là đúng sự thật lắm. Thế mà thình lình có một người con gái ở huyện mê linh đột nhiên xoang tay rán cánh đuổi quân Tàu làm tiên phong độ quân độc lập ở nước ta, mà sử nước ta mới bắt đầu có ba chữ tên họ Trưng nữ vương là người nước ta, chẳng những làm vẻ vang cho nước ta mà thôi, mà cả đến nước tàu thời đông hán kỷ cũng có mấy chữ viết to là GIAO CHỈ NỮ TỬ TRƯNG TRẮC mà ở tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình nước Tàu cũng có một cái miếu thờ có ba chữ biển đề rằng Trưng Vương Miếu.
Chứng cớ như thế thời bảo bà trưng là người sinh đẻ ra người nước nam ta ai lại không thừa nhận được? Sử học ngày nay theo khoa học mà cùng tới, không thể bằng theo thuyết thần bí huyễn hoặc mà cần phải căn cứ vào sự thực. Vậy căn cứ vào sự thực trên lịch sử thì tôi nhất định nhận bà Trưng nữ Vương là thủy tổ. Các nhà sử học trong nước nghĩ sao? [7]
Người Tầu cũng vậy. Mặc dầu coi Hai Bà là làm phản, Hậu Hán Thư đã dùng ba chữ “thậm hùng dũng” (rất hùng dũng) để diễn tả khí thế của Hai Bà. Sau đây là những đoạn trích trong các sách sử khác của người Việt.
Trước hết là nhận xét của Lê Văn Hưu, tác giả của bộ chánh sử đầu tiên của người Việt đời Trần Thái Tông. Lê Văn Hưu đã viết về Hai Bà Trưng như sau:
Trưng Trắc, Trưng nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng; việc dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể dựng cơ nghiệp bá vương. Tiếc rằng sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm thần bộc cho người phương Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị em họ Trưng là đàn bà ư? Ôi! Có thể gọi là tự bỏ mình vậy [8].
Tiếp theo là nhận xét của Ngô Sĩ Liên:
Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta xuýt được khôi phục; khí khái anh hùng không những là lúc sống dựng nước xưng vương mà sau khi chết có thể chống ngăn tai hoạ; phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đều cầu đảo không việc gì là không ứng.
Cả bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, các khí hùng dũng trong khoảng trời đất không phải vì thần chết mà kém đi. Bọn trượng phu chẳng nên nuốt lấy cái khí phách cương trực chính đại ư? [9]
và của một sử thần khác:
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là đất nước Thục, không giữ được mà mất về họ Triệu, không giữ được mà bị nhà Hán thôn tính. Bà Trưng là một người con gái góa ở Giao Chỉ, không có một thước đất, một người dân, chỉ vì báo thù chồng mà khởi binh đánh một trận, cả sáu quận đều theo, định được 65 thành dễ như lấy đồ trong túi, làm cho bọn quan lại, thú úy cai trị trong thời gian 150 năm, phải bó tay không dám làm gì. Than ôi! Cái khí anh linh của trời đất, không chung đúc vào người con trai, mà lại chung đúc vào người con gái, nếu phải có lòng trời tựa Lạc Việt, thì có thể lấy cả được Kinh, Dương, đâu lại chỉ có đất Ngũ Lĩnh mà thôi. [10]
Ngọ Phong Ngô thời Sỹ còn dẫn một đoạn khác trong sách Thông Luận như sau: Không có gì khó thu phục được là nhân tâm, không có gì khó nắm giữ được là quốc thể; lại còn khó nữa là một người đàn bà mà tập họp được cả nhân dân trai tráng làm đồng chí. Nước ta bị nội thuộc đã lâu, phục tùng pháp chế cho là quen, bị bọn tướng lại thống trị cho là việc thường ngày, huống chi đương lúc nhà Hán trung hưng, thu phục nhiều tay trí dũng, ai dám chống cùng oai hổ. Trưng vương là đàn bà góa, búi tóc đứng lên, những con trai trong nước đều cúi đầu chịu. Bà chỉ huy, các quan to ở năm mươi thành cũng đều nín hơi, không dám kháng cự. Lưu Văn Thúc là người diệt được quần hùng, chống nổi đại địch, mà khi tập binh khiển tướng còn phải ăn trưa ngủ muộn, lo nghĩ cơ mưu; Mã Phục Ba làm cỏ nước Tiên Linh, phá tan nước Tham Lang, mà khi đóng quân ở Lãng Bạc, cũng phải lo xa nghĩ kỹ, náu hình ở bên hồ sâu. Tiếng tăm hùng dũng của Bà chấn động cả Trung Hoa, cơ nghiệp mở mang của Bà ngang trong trời đất, thật là anh hùng.


Trong những sách Bắc Sử về về đời Hán, Đường cũng có vua đàn bà, như họ Lã, họ Vũ, nhưng đều là nhờ thế đã làm mẫu hậu rồi, mà nắm lấy quyền nhân chủ, thì dễ lung lạc được trong nước, múa may với đàn trẻ. Đến như Bà Trưng là một người đàn bà thường mà khởi lên được thì khó lắm. Xem trong Nam Sử thì nội thuộc Lương và Trần, có ông Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, sẵn là cường hào, hay là gia thế, lòng người đã sẵn quy phục, thế nước đã hơi xu hướng mà khởi lên còn có phần dễ; đến như Bà Trưng là con gái thì lại khó lắm. Tuy thế cũng chưa lấy gi làm kỳ cho lắm. Vợ trả thù chồng, em giúp việc chị, một là tiết phụ, một là nghĩa nữ, vào cả một nhà, thế mới là kỳ. Ông vua bị mất nước, hoặc là bị bắt, hoặc là đầu hàng, con gái ở cảnh nhà tan, hoặc phải bỏ đi, hoặc bị tủi nhục. Bà chị mất nước, bà em cũng tuẫn tiết theo chị, không chịu đầu hàng cũng không để bị bắt, người chồng ở dưới đất được nhắm mắt, kẻ gian tà trông thấy thế phải cúi đầu. Vua tôi Văn Thúc (tướng Hán) không làm gì nổi. Chết rồi mà tiếng thơm vẫn còn. Thế mới càng kỳ nữa. Than ôi! Hồng nhan trẻ đẹp xưa nay chôn vùi đã bao người. Nhưng Nữ Oa có việc động trời đến giờ, chỉ có hai chị em Bà Trưng nữa đấy thôi. Còn bà Triệu thì chưa đáng kể. [11]

Vua Tự Đức cũng có nhận xét tương tự trong phần Ngự Phêcủa bộ Cương Mục:
Hai Bà Trưng thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dầu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời thế, nhưng cũng làm phấn khởi lòng người, lưu danh sử sách. Kì những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác. Chẳng cũng mặt dày thẹn chết lắm du! [12]
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tiền Biên, Quyển Nhị.

Sau hết là Trần Trọng Kim, tác giả của Việt Nam Sử Lược:
Hai bà họ Trưng làm vua được 3 năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để ghi tạc cái danh tiếng hai người nữ anh hùng nước Việt Nam ta. [13]
Lệ Thần Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon, Tân Việt, in lần thứ không đề năm, tr. 48.
Trong văn học: Trong văn học không một người Việt Nam nào trước đây không có dịp đọc hay học thuộc lòng hay được nghe người khác học hay ru em bài “Bà Trưng Quê Ở Châu Phong”, trích trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái và một số những bài thơ khác của hai tác giả này. Những tác phẩm này phần lớn xuất hiện hồi đầu Thế Kỷ 20 do nhu cầu vận dụng quần chúng của các nhà cách mạng, ái quốc đương thời và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Về tuồng ta có Thù Chồng Nợ Nước của Hoàng Tăng Bí; về văn tế ta có Bà Trưng Tế Chồng của Á Nam Trần Tuấn Khải; về văn suôi, ta có bài Ai Là Tổ Nước Ta? Người Nước Ta Với Sử Nước Ta của Phan Bội Châu đã dẫn trên đây; về thơ, người viết chỉ giới thiệu một số bài tiêu biểu đã có dịp được học như những bài học thuộc lòng hồi còn nhỏ, được nghe các bà mẹ, các bà chị hát ru, được học thuộc lòng từ thuở ấu thơ, được đọc trong các sách và gần đây được thấy trên các trang mạng. Tất cả đều gợi lên trong lòng người nghe, người đọc một niềm hãnh diện lớn lao về quá khứ oai hùng của dân tộc Việt Nam, kèm theo những tình cảm đau xót, ngậm ngùi, tiếc thương, oán hận, nhưng không hoàn toàn tuyệt vọng. Trái lại với bốn câu mở đầu cho bài Đề Vịnh Trưng Vương của Hoàng Thúc Hội làm năm 1932, vào lúc thịnh thời của chế độ đô hộ của người Pháp: Thời nào cũng có hào kiệt của thời ấy, chỉ là đã qua hay chưa tới mà thôi. Thời hai Bà Trưng, Thánh Gióng đã về Trời, Bà Triệu chưa nổi dậy, nhưng rồi Hai Bà đã xuất hiện để “Nẩy chồi hoa nụ Lạc, Mở mặt nước non Hồng”:
Ngựa Gióng đã lên không
Rừng Thanh voi chửa lồng.
Nẩy chồi hoa nụ Lạc
Mở mặt nước non Hồng.

Trước nhất và quen thuộc nhất là bài của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, trích trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca mà ngươi ta quen gọi là bài Bà Trưng Quê ở Châu phong:
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị em nặng một lời nguyền,
Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân.
Ngàn tây nổi áng phong trần,
Ầm ầm binh mã tới gần Long Biên.
Hồng quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba thu gánh vác sơn hà,
Một là báo phục, hai là bá vương.
Uy danh động đến Bắc phương,
Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ nhi chống với anh hùng được nao.
Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị em thất thế phải liều với song.
Phục Ba mới dựng cột đồng,
Ải quan truyền thấu biên công cõi ngoài.
Trưng Vương vắng mặt còn ai,
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca
Bài của Dương Bá Trạc (1884 – 1944):
Nước nhà gặp cơn bĩ,
Trách nhiệm gái trai chung.
Quyết lo đền nợ nước
Há những vị thù chồng?
Tham tàn căm tướng Chệt,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi! Đứng cùng chị.
Thù riêng mà nghĩa công
Tham tàn căm tướng Chệt,
Tai mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi! Đứng cùng chị.
Thù riêng mà nghĩa công.
Xin đem phận bồ liễu,
Đành liều với núi sông.
Một trận đuổi Tô Định.
Quân Tầu đuôi chạy cong.
Lĩnh Nam bảy mươi quận,
Mặc sức ta vẫy vùng.
Mê Linh xưng nghiệp đế,
Độc lập nêu cờ hồng.
Bốn năm nước tự chủ;
Nhi nữ cũng anh hùng.
Dương Bá Trạc

Bài của Đặng Văn Bá (1877 - 1842):
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi ngàn thu.
Vì nước thương người khuất,
Xúm tay chỉ đứa thù.
Non sông tươi nét mặt,
Hào kiệt hổ chòm râu.
Ai biết, ai không biết,
Hồ Tây nước thẳm sâu.
Đoàn Văn Bá

Bài của Nguyễn Ngô Đoan (1851 – 1945):
Trăm năm trong cõi người ta,
Khí thiêng chung đúc một nhà lạ thay,
Kìa xem Sử Việt xưa nay,
Thoa quần mà cũng có ngày đế vương.

Giai nhân nan tái đắc.
Trong danh hoàn dễ được mấy Trưng Vương?
Hội phong trần sinh ở xứ Đông Dương,
Vững gan sắt lấy cương thường làm trọng.
Quốc sỉ phu thù thiên bất cộng,
Tỷ trinh muội liệt thế vô vong.
Đem phấn son thay lấy việc anh hùng,
Lưỡi kiếm chẳng dong phường cẩu tặc.
Đuổi Tô Định thẳng về đất Bắc,
Rửa tanh hôi mà gánh lấy non sông.
Làm gương cho khách hồng quần.
Nguyễn Ngô Đoan

Bài Vịnh Phục Ba của Đoàn Như Khuê (1883- 1957):
Vịnh Phục Ba
Trèo non, vượt bể biết bao công,
Một chút Hồ Tây chút vẫy vùng.
Quắc thước khoe chi mình tóc trắng,
Cân đai đọ với khách quần hồng.
Gièm chê đã chán đẩy mâm ngọc,
Khen chê đã chán mấy cột đồng.
Ai muốn chép công ta chép oán.
Công riêng ai đó, oán ta chung.
Đoàn Như Khuê

Bài Vịnh Trưng Vương của Thái Xuyên Hoàng Cao Khải (1850 – 1933):
Vịnh Trưng Vương
Tượng đá Trời Nam giãi tuyết sương
Ngàn năm công đức nhớ Trưng Vương
Tham tàn trách bởi quân gây biến
Oanh liệt khen cho gái dị thường
Liều với non sông hai má phấn
Giành nhau nòi giống một da vàng
Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên Hoàng Cao Khải

Tiếp theo là Hoàng Thúc Hội (1870 -1938) với bài Đề Vịnh Trưng Vương. Bài này được giải thưởng năm 1932 và được khắc vào bia Đền Thờ Hai Bà. Khác với những bài trước, bài này ý và lời không mang tính cách hoài niệm, u buồn, thở than, ngậm ngùi, trách móc mà hào hùng hơn khi hướng về quá khứ với hai hình ảnh biểu trưng là Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương, Bà Triệu và tích cực hơn khi hướng về tương lai, dù không trực tiếp mà chỉ là nói mé:
Đề Vịnh Trưng Vương
Ngựa Gióng đã lên không
Rừng Thanh voi chửa lồng
Nẩy chồi hoa nụ Lạc
Mở mặt nước non Hồng
Trăng rọi gương hồ Bạc
Mây tan dấu cột đồng
Nén hương lòng cố quốc
Xin nhắn một lời chung.
Hoàng Thúc Hội

Riêng về câu đối, trước đó, về thời Nhà Lê, dưới thời Lê Thần Tông, người ta có truyền tụng đôi câu sau đây của Giang Văn Minh làm khi đi sứ sang Nhà Thanh năm Mậu Thìn, 1628, nói về cột đồng:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ)

được ghi trong Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục với đề tài do phía Nhà Thanh đề ra. Sau đó, theo lời truyền, ông bị Nhà Thanh giết, tẩm xác vào thủy ngân, rồi cho đưa về nước.


Trong âm nhạc: Không kể cổ nhạc với những vở chèo, tuồng, cải lương, trong tân nhạc người ta cũng thấy có nhiều bài nói tới Hai Bà Trưng hay lấy Hai Bà Trưng làm đề tài, điển hình là bài Trưng Nữ Vương của Nhạc Sĩ Thẩm Oánh vô cùng quen thuộc với các nữ học sinh Việt Nam trong vùng Quốc Gia, thời Quốc Trưởng Bảo Đại trước năm 1954 và ở miền Nam trước năm 1975, rồi sau này ở Hải Ngoại, với lời ca vô cùng trang nghiêm, kính cẩn và mang nặng tinh thần hoài niệm như sau:

Trưng Nữ-Vương lau phấn son mưu thù nhà,
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca,
Thu về giang-san cho lừng uy gái Nam,
Bầu Trời Á sáng ngời ánh quang.

Nợ nước phó tay người nhi-nữ,
Tình riêng cứu nguy cho toàn-dân,
Một lòng trung-trinh son sắt bên Hát Giang sóng rền.

Trưng Nữ Vương dày đức cao ơn,
Xin ứng linh ban phúc cho giang san hoà bình.
Trưng Nữ Vương, nước non còn đó,
Giống Lạc Hồng quyết kiên lòng bồi đền non sông.

Hồn quốc gia mờ phai má đào,
Nhà Việt lặng buồn, rầu rĩ, sầu đau,
Xui lòng nhi nữ mau phục thù,
Mê Linh ngợp trời cờ Việt sóng xô.
Mang phấn son tô màu sơn hà,
Lòng vì nước, vì nhà.
Cho Việt Nam muôn đời hung cường,
Nhờ ơn-đức Trưng Vương.

Trưng Nữ Vương lau phấn son mưu thù nhà,
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca,
Thu về giang san cho lừng uy gái Nam,
Bầu Trời Á sáng ngời ánh quang.

Nợ nước phó tay người nhi nữ,
Tình riêng cứu nguy cho toàn dân,
Một lòng trung trinh son sắt bên Hát Giang sóng rền.

Trưng Nữ Vương dày đức cao ơn,
Xin ứng linh ban phúc cho giang san hoà bình.
Trưng Nữ Vương, nước non còn đó,
Giống Lạc Hồng quyết kiên lòng bồi đền non sông.
Hùng Lân (1922 – 1986) trong Cô Gái Việt cũng có hai câu:
Triệu Trưng xưa đẹp gương sáng muôn đờ!
Dòng máu thiêng còn đượm nồng trong trái tim.

Văn Giảng (1924 – 2013) cũng viết Đêm Mê Linh:
ĐÊM MÊ LINH
Canh dài ta ngồi trong rừng cây vang âm hồn thiên thu
Trời vắng hồn lắng tiếng sơn hà trong gió hú:
"Ai thấy chăng xưa hùng cường?
Ai thấy chăng nay xiềng cùm
Đằng đằng nặng hận thù
Ai đắp non sông trường tồn?
Ai kết lên dân tài hùng
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn?"

Ta cùng chung lòng mong ngày vang danh thơm dòng oai linh
Thề quyết rèn chí quét quân thù đang cướp nước
Ta cháu con dân Việt hùng
Nơi Mê Linh ta trùng phùng
Đồng lòng nguyền vẫy vùng
Ta chiến binh đang thề nguyền
Quanh ách thiên nung lòng bền
Gian nguy càng hăng chí
Xung phong chờ đến ngày

Ai vì nước?
Ai thề ước?
Ta xung phong nguyền dâng thân hiên ngang
Nguyện đấu tranh xua tan quân Đông Hán
Ai trung thành?
Ai liều mình?
Thề hy sinh, thề tung hoành hiên ngang
Thề kiên trung chiến đấu, thế chiến thắng!

Canh dài ta ngồi mơ ngày đi xông pha giành non sông
Ngời chói bừng ánh sáng tươi hồng hăng chí nóng
Quanh ánh thiêng reo bùng bùng
Ta nắm tay ca trầm hùng
Hẹn ngày rạng Lạc Hồng
Mơ xuất quân đi rập ràng
Mơ quét tan quân bạo tàn
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn

và chắc chắn còn nhiều hơn nữa, đặc biệt là câu đối và văn tế. Người viết xin để quý vị độc giả tùy nghi tìm kiếm thêm cho đầy đủ hơn.
Để kết luận, ta có thể nói rằng chủ trương xâm lấn và tiêu diệt dân Việt là một chủ trương ngàn năm, cố hữu của người Tầu. Người Tầu đã có chủ trương này từ ngót hai ngàn năm trước ngay sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng. Sự thay đổi chính sách và cuộc cải tổ guồng máy cai trị, điển hình là chuyện họ Mã dựng cột đồng và nguyền rủa dân Giao Chỉ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là những bằng chứng cụ thể không thể chối cãi được.

Một ngàn chín trăm bảy mươi sáu năm đã trôi qua. Chỉ còn bốn năm nữa là đủ hai ngàn năm. Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam vẫn hiên ngang tồn tại và hàng năm vẫn làm lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng ở khắp nơi ở trong nước cũng như ở Hải Ngoại trong khi cột đồng của họ Mã ngay từ sau khi xuất hiện đã bị người dân ném đá chôn vùi để rồi “chìm chín suối”, không còn “tìm đâu thấy” dấu vết, còn danh thơm của Hai Bà thì “Bia đá rọi nghìn thu” đúng như hai câu thơ của Nhà Nho Đặng Văn Bá được trích dẫn trong phần đầu của bài viết này:
Cột đồng chìm chín suối,
Bia đá rọi nghìn thu.

Khi bài này được viết thì mối đe dọa của người Tầu và hiểm họa mất nước, kể cả diệt chủng đã lại tái xuất hiện. Lần này cực kỳ nguy hiểm, tinh vi và độc địa hơn nhiều. Nó xảy ra giữa hai nước Cộng Sản anh em “môi hở răng lạnh”, “bốn tốt, mười sáu chữ vàng”. Có điều là hiểm họa không phải chỉ xảy ra ở Biển Đông mà ngay trên đất liền. Những gì xảy ra ở Biển Đông chỉ là diện, trên đất liền mới là điểm. Hiểm họa lần này đã xảy ra một cách âm thầm, nhẹ nhàng, tiệm tiến, phi võ lực và do chính những người Việt tự nhận là “đỉnh cao trí tuệ” tự tạo ra và tự chấp nhận. Nó đã và đang xảy ra trong tất cả mọi sinh hoạt từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội... và đã được rất nhiều người thuộc đủ mọi giới trong cũng như ngoài nước lên tiếng cảnh cáo. Người viết thấy không cần viết thêm ở đây.

2. CUỘC TRIỆT TIÊU VĂN HÓA ĐẠI VIỆT CỦA NHÀ MINH: CHUYỆN NHÀ MINH CƯỚP SÁCH CỦA TA ĐEM VỀ KIM LĂNG
Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tầu xảy ra cách đây hơn sáu trăm năm bị nhiều người cho là không quan trọng. Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tầu nhằm tiêu diệt dân tộc Việt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận ra hay đã quá muộn. Nó nằm trong “Mưu Độc Ngàn Năm” với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện gần hai ngàn năm trước và một lần nữađã và đang trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua. Không lẽ tổ tiên mình đã thành công bảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lại bất lực và để mất hay sao? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm “Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối” và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được “Bia đá rọi ngàn thu” để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi tự hát cho mình mình nghe:
Để lại cho em này nước non mình.
Để lại cho em một nước đẹp xinh.
Một miền oai linh hiển hách.
Chỉ còn dư vang thần thánh.
Để lại cho em hèn kém của anh...
thay vì:
Người sau, kẻ trước lao vào địch,
Giữ vững nghìn thu một giống nòi.
hay sao? Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.
Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viết về “Mưu Độc Ngàn Năm” của người Tầu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện kỳ trước.

Trong tháng 4 năm 2004, dưới nhan đề “Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu”, tôi có viết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vì tôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc. Năm 2012, tôi đã viết thêm và năm nay 2019, tôi xin được viết thêm nữa. Đầu tiên tôi xin nói là năm 2004 khác với năm 2012 và năm 2019 lại khác hơn nữa. Năm 2004 hiểm họa tái xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như trong năm 2012 và những năm sau này. Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung là một điều tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếm thêm tài liệu để viết nhiều hơn nữa dù đã ở trên đường tới tuổi chín mươi, tuổi bị kể như là quá già và sắp rời cõi tạm.
Thực sự thì sự thắc mắc của tôi về chuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay đem về Tàu tôi đã có từ lâu. Thắc mắc nhưng đồng thời cũng là một nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối, đặc biệt là mỗi khi tôi có việc phải tìm hiểu về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiều cho vinh quang, thịnh vượng của xứ sở, nói chung và đặc sắc riêng cho văn hóa riêng của dân tộc mình, nói chung. Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, tiếc nuối của tôi cũng là của chung của cả dân tộc tôi, dù cho là tôi đang làm công chuyện tìm hiểu và nghiên cứu. Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có cái đầu lạnh chừng nào hay chừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về quá khứ, nhưng dù muốn hay không tôi vẫn là người Việt Nam. Những gì tôi viết ra ở đây chỉ là một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việt đương thời do chính người Đại Việt viết ngoài văn chương, thơ phú, còn có học thuật, tư tưởng, phong tục, tập quán, sử ký, địa lý, con người và tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca..., những gì có thể giúp cho người thời đó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và dân tộc Đại Việt cũng như những thành công vĩ đại mà tổ tiên ta đã đạt được ngót ngàn năm trước. Những sách vở, tài liệu này tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn là những gì ta hiện có, cộng thêm với những gì được liệt kê trong danh sách những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớ được và viết lại trong sử sách do các cụ viết.[1] Tôi dám tin là như vậy vì đây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử dân tộc mình. Tôi cũng dám tin như vậy căn cứ vào bài tựa của Việt Âm Thi Tập, sưu tập thơ của thời Lý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực hiện, Lý Tử Tấn đề tựa. Cả ba đều là người đương thời, từ đó những sự hiểu biết của các ông còn rất nóng, chưa đến nỗi bị thời gian làm cho hao mòn. Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm 1396 đời Vua Trần Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với Nguyễn Trãi, khoa Canh Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vì sách được soạn xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình của Phan Phu Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ, nên những gì các ông biết về sách vở, thi ca của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực nào cũng như hành động tịch thu sách của không thể nào tàn bạo hơn của Nhà Minh là như thế nào. Lý Tử Tấn trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn. Nguyên văn như sau:

“… Như các vua Triều Trần là Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùng là Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ Lê ở Lương Giang (Lê Quát), Nguyễn Giới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh em ông Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời. Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn.” [2]

Điều cần phải để ý là đây mới chỉ là về thơ văn mà thôi. Những tài liệu khác liên quan tới sự tìm hiểu về nền văn hiến của nước Đại Việt dưới hai thời Lý Trần trước đó có thể ít hơn về số lượng nhưng quan trọng hơn nhiều cho các học giả sau này.
Sự thịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần của ta bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm 1368 [3] và Trần Nguyên Đán (1325 - 1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại của Nguyễn Trãi đã miêu tả qua câu thơ bất hủ “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” (trăm họ vui ca mừng thời thịnh trị) [4] và người lính già đầu bạc thời Trần Nhân Tông còn thỉnh thoảng ngồi kể chuyện thời Nguyên Phong:
“Bạch đầu quân sĩ tại,
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong”
Lính già phơ tóc bạc
Kể chuyện thuở Nguyên Phong
(Ngô Tất Tố dịch) [5]

Cái gì đã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến? Cái gì đã làm cho trăm họ Đại Việt “âu ca lạc thịnh thì”? Cái gì đã làm cho người lính già phơ tóc bạc ngồi kể chuyện thuở Nguyên Phong? Cái gì đã làm cho một nước nhỏ bằng bàn tay [6] thắng được quân nhà Tống và luôn cả quân Mông Cổ, điều Thiên Triều, thượng quốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả sau này, tôi muốn nói là chính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được? Cái gì đã làm cho Hồ Nguyên Trừng được Hoàng Đế Nhà Minh biết tới và trọng dụng? Đó phải là những câu hỏi mọi người nghiên cứu về triều đại này phải tìm hiểu để trả lời và đương nhiên cả người nhà Minh, trong đó có Minh Thành Tổ khi chủ trương xâm lăng và đô hộ nước ta cũng muốn tìm hiểu. Chính vì vậy, những sách vở do người Đại Việt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn phải là những nguồn hiểu biết vô cùng quan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể cả người Tàu đương thời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn có được trong tay để đọc và lưu giữ thay vì nhắm mắt đốt bỏ hết. Đó là lý do tại sao hai sắc chỉ ban đầu của Minh Thành Tổ đã không được triệt để thi hành. Nếu quả như vậy thì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa bị mất và vẫn còn nằm đâu đó bên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác, nếu kiên trì tìm kiếm và có phương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại được. Tất nhiên là với tất cả sự dè dặt và kiên trì tối thiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu cần phải có.

Ý được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gần như là không, vì nếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyện người Tàu lấy sách của ta đem về Tàu. Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ của ông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu. Câu trả lời của tôi là căn cứ vào các sách sử của ta. Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các sách vở, tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông GiámCương Mục, chính sử của nhà Nguyễn, một tác phẩm không do một người mà do nhiều người thuộc Quốc Sử Quán đương thời do Phan Thanh Giản làm Tổng Tài biên soạn, và trước đó, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều này.
Trước hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí”, Lê Quý Đôn có viết: “Đến đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của ta gửi theo đường sông về Kim Lăng.” [7] Nên để ý ba chữ “theo đường sông” tác giả dùng để nói rõ chi tiết về cách chở về Kim Lăng ở đây chứ không nói chung chung. Còn trong KĐVSTGCM, phần Chính Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Nghĩa sang nước ta ban phát cho những người Nho học, một cách khẳng định, có chép thêm “Còn các sự tích và sử sách của nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng.” [8]

Gần ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng viết:
“Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý - Trần. Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách trước kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!” [9]

Tất nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng có thể nói rằng những ghi chú kể trên đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫn chưa đủ thuyết phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng. Thực sự thì ta không biết Lê Quý Đôn rồi sau này các nhà san định bộ KĐVSTGCM đã căn cứ vào đâu để ghi chép như trên. Có thể các vị sau này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn Lê Quý Đôn thì căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thời trước ông, trong đó không thể không có Lý Tử Tấn. Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đôn là người chịu khó tìm tòi, học hỏi. Ông đã đọc rất nhiều, rất rộng và ghi chép rất cẩn thận. Chỉ cần đọc các tác phẩm của ông người ta thấy rõ điều này. Còn Trần Quốc Vượng thì đã không nêu rõ các nguồn sử liệu ông đã dùng. Nhưng sử gia này cũng là người làm việc rất tỉ mỉ và có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi nhận về sự kiện kể trên một cách hồ đồ vô căn cứ. Dù sao, một khi nghi vấn đã được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệu nếu có và vừa bằng suy luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy.

Trước hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đề sách vở của người Việt trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được dịch và in lại trong Thơ Văn Lý Trần, một công trình được thực hiện bởi những nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của Việt Nam trong thế kỷ XX trước, để thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hành vào ngày 16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị Hoàng Đế Trung Hoa này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ của ông ta là phải hủy diệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Còn quân lính thì phần đông không biết chữ...thì khi “đài tải” sẽ bị mất mát nhiều [10].

Tại sao lại “đài tải”? Tại sao lại lo mất mát nhiều? Tại sao lại để xem rồi mới đốt?
Đến sắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho các tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ trước: “Nay An-nam đã bình định xong [...] trừ các loại chế dụ ra, còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện.” [11] thì người ta thấy sự kiện đã quá rõ rệt là lệnh của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và các sách vở quân Minh thu được đã không bị đốt bỏ hết. Một số khác trên đường đài tảiđã bị mất mát rất nhiều. Ngoài ra, ngoài ba dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiện tối mật khác hoặc đã được niêm phong gửi lại Triều Đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thời điểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được và có thể không bao giờ biết được nhưng người ta có thể chắc chắn là chúng chứa đựng rất nhiều chi tiết liên quan tới đường lối thâm độc của nhà Minh trong thời gian này, nếu không tại sao Minh Thành Tổ lại thêm câu cuối “Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia thì rất bất tiện”.Đây mới là điểm quan trọng của vấn đề. Tại sao Minh Thành Tổ lại sợ đến như vậy? Do đó nếu chúng ta chỉ căn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần), ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kể trên, mà bảo rằng không hề có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôi e rằng quá máy móc và vội vã. Chúng ta chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mật này. Đây gần như là một việc mò kim đáy biển. Tuy nhiên còn có những lý do khác khiến ta có thể viện dẫn được. Thứ nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhà Minh, một tính tự nhiên và phổ quát của con người mà họ không tránh được, đặc biệt ở những người có học khi họ kiếm được những sách nói về những điều họ đã học và muốn biết. Ở đây tôi muốn nói tới các sách về Tam Giáo, đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly [12] và của Chu Văn An [13], cộng thêm nhu cầu cần biết để xâm lăng, bình định và cai trị,chưa kể tới hoàn cảnh họ phải sống xa triều đình và xa nhà. Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và các nhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ thu thập được, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của họ và của dân bản địa mà họ phải bình định và cai trị. Nghiên cứu rồi sau đó đem theo mình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ; còn triều đình nhà Minh thì ở quá xa, làm sao có thể hiểu rõ những nhu cầu này và theo dõi chặt chẽ được, chưa kể tới chuyện ra lệnh chỉ là bề ngoài để che mắt mọi người.

Câu hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác phẩm nào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra dưới hình thức này hay hình thức khác chưa? Câu trả lời là có. Đó là Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh. Hai cuốn sách này xuất hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại. Việt Sử Lược đã bị thất truyền rất lâu, mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 - 1795) mới được đem in, nói là theo bản của Tuần Phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên vua với người hiệu đính là Tiền Hi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ Thủ Sơn Các Tùng Thư. Việt Sử Lược được lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng Thư và ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được nhiều nhà xuất bản Trung Quốc ấn hành. Tác phẩm này đã được Giáo Sư Trần Quốc Vượng phiên dịch sang Việt ngữ, giới thiệu và chú giải.[14] Trong bản dịch của ông, Trần Quốc Vượng có nói tới Thiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việc các người họ Lý bị đổi thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đối chiếu nội dung của Thiền Uyển Tập Anh với An Nam Chí Nguyên, nhà học giả Phật Giáo uyên thâm này đã khẳng định là: “Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407, Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An nam chí nguyên.” [15]

Trên đây là những gì tôi ghi tạm để cấp thời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới trẻ khi hiểm họa mất nước của dân tộc ta trước những toan tính ngàn năm, vừa công khai, vừa tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảo lẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên cao nguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối với đất đai cũng như đối với con nguời Việt Nam. Mưu độc ngàn năm với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện một lần nữa đã trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng nóng hổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu chiến sĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua nhân danh bảo vệ đất nước. Bài viết, do đó, chắc chắn còn nhiều thiếu sót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp. Riêng về giá trị văn chương của thi phú của ta so với của Tầu thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biết và khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ, vả lại đó không phải là loại tài liệu mà các tướng lãnh và các nhà cai trị người Minh quan tâm, nhất là loại thơ văn lãng mạn, tình cảm cá nhân. Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳ hay các nhân vật liên hệ tới lịch sử mà thôi. Điều tôi muốn nói lên ở đây là nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt hay chép lại rồi đề tên bất cứ người nào khác hay viết lại hay đạo văn của ta, nếu có, khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV với chủ trương chính yếu của họ là nhằm triệt tiêu khả năng tinh thần, lòng tự tin và nguồn hãnh diện của dân tộc ta để phòng ngừa hậu họa, đồng thời giữ cho nước Tầu vị thế độc tôn, trung tâm của thế giới văn minh, không phải chỉ ở thời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau này nữa. Thơ văn chỉ là một phần nhỏ. Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếu ta dùng từ ngữ chung của nhiều người khi nói tới hay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của đất nước ta. Một chính sách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà còn có thể được coi như phản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự thành công không thể ngờ được của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều Trung Quốc, một chính sách và một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiện tại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và long trọng xin lỗi, coi như đã phạm một tội ác đối với nhân loại. Có điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, nằm ở giữa. Chung quanh họ đều là man di mọi rợ, Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, cùng với Bắc Địch, Đông Di, Tây Nhung... nằm ngoài rìa của Hoa Hạ thời cổ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện tại... Bao nhiêu tài nguyên, của cải quý báu nhất từ vật chất đến tinh thần trong thiên hạ là phải được tập trung hết về tay họ. Những chiến thắng của người Việt trong các thời Lý Trần, đặc biệt là chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khi người Tàu thực hiện không nổi là những gì họ không thể chấp nhận được. Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh là Minh Thái Tổ ban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến Chi Bang, vô tình ông đã mở đầu khai tử cả một nền văn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu duệ của ông, Minh Thành Tổ. Là người sáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãi bao dung nhưng những người kế vị ông coi đó là một sự xúc phạm đến thiên triều khi chính tình của nhà Minh đã ổn định. Cuối cùng ta cũng không nên quên là kiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu góp chất xám từ các xứ chung quanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những người tài giỏi khi các nước này còn độc lập hoặc ruồng bắt những người này khi các nước họ bị xâm lăng hay đô hộ đem về Trung Quốc. Điều này đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh cho Trương Phụ và các tướng tá của ông này phải “tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô, gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói, đều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu huyện”.[16] Lệnh này phải được hiểu xa hơn là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để phục vụ cho thiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong ngành hành chánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì phải đưa họ về Kim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm. Đưa về phục vụ ở Đại Việt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung Quốc để khai thác mới là chính. Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp và thu dụng nhân tài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng, con trưởng của Hồ Quý Ly. Bị bắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép tội và bị xử cực hình vì ông đã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng thần cơ, và sự hiểu biết của mình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh hay cung cấp cho nhà Minh những chỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần. Trái lại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang và đã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng để sau này coi như là thánh tổ của họ. Chưa hết, không lâu trước đó, năm 1385, thời Trần Đế Hiện, năm Xương Phù thứ 9, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục có ghi sứ thần Nhà Minh sang yêu cầu ta dâng nộp các nhà sư với các chi tiết như sau:
Trước đây, ta đưa sang nhà Minh những hoạn quan là bọn Nguyễn (Tông) Đạo và Nguyễn Toán. Nhà Minh dùng họ làm chức nội quan, đối xử rất hậu. Nguyễn (Tông) Đạo nhân nói với vua Minh rằng: Phép thuật sư Nam giỏi hơn sư Bắc (Trung Quốc). Đến đây, Minh sai sứ sang yêu cầu. Nhà vua sai tuyển lấy 20 vị sư đưa sang Kim Lăng.[17]

Chưa hết, năm sau, 1386, cũng nghe Nguyễn Tông Đạo nói nước ta có nhiều cây quý, Nhà Minh lại sai Lâm Bột sang yêu cầu dâng nộp. “Nhà vua lại sai viên ngoại lang là Phạm Đình đưa sang các cây : cau, vải, nhãn và mít, nhưng các cây ấy không quen chịu lạnh , dọc đường, đều chết hết cả”. Sau đó “Nhà Minh lại sai Lý Anh sang hỏi nhờ đường nước ta để đi đánh Chiêm Thành và đòi 50 thớt voi nữa. Ta bèn sắp xếp từ Nghệ An đổ ra , cứ theo dọc đường , dựng các cung trạm, chứa sẵn lương thảo, luân chuyển đưa đến Vân Nam”. [18]

Tưởng cũng nên biết thêm là do vị trí địa lý, ngay từ thời Bắc thuộc, Giao Châu đã là nơi Phật Giáo phát triển rất sớm và rất mạnh. Các sư người Giao Châu như Mộc Xoa Đề Bà, Khuy Sung Pháp Sư, Huệ Diêm Pháp Sư, Trí Hành Thiền Sư, Đại Thặng Đăng Thiền Sư... đã sang tận Ấn Độ, Tích Lan để học hỏi và nghiên cứu; Nhật Nam Tăng sang trụ trì một ngôi chùa trong hang núi bên Tầu và được thi hào Trương Tịch tặng thơ, Vô Ngại Thượng Nhân được thi hào Thẩm Thuyên Kỳ làm thơ để tỏ lòng kính mộ. Phụng Đình Pháp Sư và Duy Giám Pháp Sư sang Trung Quốc giảng kinh trong cung vua Đường, khi về được thi hào Dương Cự Nguyên và Cổ Đảo làm thơ tiễn biệt. Nhận xét về những sự kiện này, Thượng Tọa Mật Thể viết:
Tăng già Annam mà được sang giảng kinh ở cung vua cũng là một sự hiếm có, mà bấy giờ bên Trung Quốc đời Đường Phật giáo đương hồi thạnh, hẳn không thiếu gì cao tăng mà Tăng già ta được dự vào việc giảng kinh, kể cũng là một điều chứng nhận vẻ vang cho lịch sử Phật giáo Việt Nam vậy. [19]

Đồng thời để giải thích sự phát triển này Thượng Tọa viết thêm:
Nước ta thời ấy làm trung gian cho Tàu và Ấn Độ lại có cái lợi này: hồi ấy dân Chàm còn mạnh lại ở gần ta, họ lại dùng chữ Phạn làm văn tự và thông hiểu cả tiếng Qua Oa (Java), nên ta cũng có nhiều người giao thiệp với họ, cũng hiểu hai thứ chữ đó. Bởi thế những người Tàu qua Ấn Độ và người Ấn Độ qua Tàu, khi tới Giao châu, thường tìm người nước ta làm thông ngôn hoặc cộng tác dịch kinh chữ Phạn. Như vậy ta không nên ngạc nhiên khi thấy nhiều kinh điển về bản cựu dịch hoặc tân dịch đều dịch lần đầu tại Annam.

Nói cách khác, người Tàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ từ các xứ chung quanh về làm giàu cho xứ họ. Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chung quanh không được phép hơn họ. Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đó có sự hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơ phú... Thu góp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di sản văn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và người Mỹ, người Anh, người Pháp cũng làm; nhưng không thời nào, không người nào có mưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng Đại Việt. Hậu quả là từ sau thời Minh Thuộc, Người Việt không bao giờ có được những vinh quang đáng nể đối với người ngoài, lòng tự tin và niềm hãnh diện cho chính mình như thời trước đó nữa.

Thay cho kết luận
Chuyện Nhà Minh xâm lăng nước ta và cướp sách của ta đem về Tầu xảy ra cách đây hơn sáu trăm năm bị nhiều người không cho là quan trọng. Thực sự đây là một mưu toan vô cùng thâm độc của người Tầu nhằm tiêu diệt người Việt mà người thường ít ai để ý đến, mà có để ý đến thì cũng khó nhận ra và đã quá muộn. Nó nằm trong “Mưu Độc Ngàn Năm” với lời nguyền “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện gần hai ngàn năm trước và một lần nữa đã và đang trở thành một mối ưu tư và một đề tài vô cùng quan trọng cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của đất nước và tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ tiên, đồng bào và hàng triệu người dân và chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến kéo dài ba mươi năm vừa qua. Không lẽ tổ tiên mình đã thành công bảo vệ được dân tộc, giữ vững được đất nước mà đến đời mình lại bất lực và để mất hay sao? Không lẽ Các Cụ Ta đã thành công dìm “Cột đồng (của Mã Viện) chìm chín suối” và Hai Bà Trưng đã tạo dựng được “Bia đá rọi ngàn thu” [20] để sang thế hệ chúng ta, chúng ta lại ngồi yên để sẽ ngậm ngùi hát cho mình mình nghe:
Để lại cho em này nước non mình.
Để lại cho em một nước đẹp xinh.
Một miền oai linh hiển hách.
Chỉ còn dư vang thần thánh.
Để lại cho em hèn kém của anh [21]

thay vì:
Người sau, kẻ trước lao vào địch,
Giữ vững ngìn thu một giống nòi. [22]

hay sao? Xin để quý bạn đọc tùy nghi trả lời.

Phạm Cao Dương
Khởi viết Tháng Tư 2004,
sửa lại nhằm kỷ niệm Ngày Giỗ Trận Đống Đa, Nhâm Thìn 2012
Cập nhật hóa Xuân 2019

Xin chú ý: Đây là bài thứ hai trong loạt bài tác giả viết về “Mưu Độc Ngàn Năm” của người Tầu nhắm vào Dân Tộc Việt Nam sau bài nói về Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà Trưng và Cột Đồng Đông Hán của Mã Viện kỳ trước.

[1] Dựa theo phần “Văn Tịch Chí”, trong Lịch Triều Hiến Chưong Loại Chí của Phan Huy Chú, các nhà san định bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục liệt kê các tác phẩm “mà người Minh tịch thu mất” như sau:
Tên sách Số quyển/bộ Tác giả/Soạn thời các vua
Hình Thư 3 quyển Lý Thái Tông
Quốc Triều Thông Lễ 10 quyển Trần Thái Tông
Hình Luật 1 quyển Trần Thái Tông
Kiến Trung Thường Lễ 10 quyển Trần Thái Tông
Khóa Hư Tập 1 quyển Trần Thái Tông
Ngự Thi 1 quyển Trần Thái Tông
Di Hậu Lục 2 quyển Trần Thánh Tông
Cơ Cừu Lục 1 quyển Trần Thánh Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Thánh Tông
Trần Triều Đại Điển 2 quyển Trần Dụ Tông
Trùng Hưng Thực Lục 2 quyển Trần Nhân Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Nhân Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Minh Tông
Thủy Vân Tùy Bút 2 quyển Trần Anh Tông
Bảo Hoà Điện Dư Bút 8 quyển Trần Nghệ Tông
Thi Tập 1 quyển Trần Nghệ Tông
Binh Gia Yếu Lược 1 bộ Trần Hưng Đạo
Vạn Kiếp Bí Truyền 1 bộ Trần Hưng Đạo
Tứ Thư Thuyết Ưóc 1 bộ Chu Văn Trinh
Tiều Ẩn Thi 1 tập Chu Văn Trinh
Sầm Lâu Tập 1 quyển Uy Văn Vương
Trần Quốc Tuy (Toại)
Lạc Đạo Tập 1 quyển Chiêu Minh Vương
Trần Quang Khải
Băng Hồ Ngọc Hác Tập 1 quyển Trần Nguyên Đán
Giới Hiên Thi Tập 1 quyển Nguyễn Trung Ngạn
Hiệp Thạch Tập 1 quyển Phạm Sư Mạnh
Cúc Đường Di Thảo 2 quyển Trần Nguyên Đào
Thảo Nhàn Hiệu Tần 1 quyển Hồ Tôn Thốc
Việt Nam Thế Chí 1 bộ Hồ Tôn Thốc
Việt Sử Cương Mục 1 bộ Hồ Tôn Thốc
Đại Việt Sử Ký 30 quyển Lê Văn Hưu
Nhị Khê Thi Tập 1 quyển Nguyễn Phi Khanh
Phi Sa Tập 1 quyển Hàn Thuyên
Việt Điện U Linh Tập 1 quyển Lý Tế Xuyên

Tất nhiên đây chỉ là những tác phẩm được tập trung lại thành sách. Chỉ cần đối chiếu với danh sách các tác phẩm được Lê Quý Đôn ghi trong phần “Nghệ Văn Chí” thuộc tác phẩm Đại Việt Thông Sử người ta thấy còn nhiều sách khác đã bị mai một mà các cụ đã bỏ qua không ghi ra hết, chẳng hạn như Hoàng Tông Ngọc Diệp, 1 quyển, soạn năm thứ 17 đời Lý Thái Tổ (1026); Quốc Triều Thông Chế , 20 quyển,soạn trong thời Trần Thái Tông, Công Văn Cách Thức thời Vua Trần Anh Tông, năm 1299 , Nam Bắc phân Giới Địa Đồ, thời Vua Lý Anh Tông, năm 1147… Còn nhiều tài liệu rời thuộc các sinh hoạt chính trị, hành chánh, giáo dục, văn chương, thi ca… có giá trị khác cũng đã bị tiêu hủy hay bị Quân Minh lấy mất, tiêu hủy hay đem về Tàu. Xin xem thêm: Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập Một, bản dịch của Viện Sử Học, Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998, tr. 765-767; Lê Quý Đôn, Lê Quý Đôn Toàn tập, Tập III, Đại Việt Thông Sử,bản dịch ncủa Ngô Thế Long. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1978, tr. 103-113; Lệ ThầnTrần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon: Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1971, tr. 212-213.
[2] Trần Văn Giáp, Tìm Hiểu Kho Sách Hán Nôm, Nguồn Tư Liệu Văn Học Sử Học Việt Nam, Tập II. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1990, tr. 26-30; Lại Nguyên Ân, Từ Điển Văn Học Việt Nam. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1999, tr. 734-35.
[3] Phạm Cao Dương, “Chung quanh hai chữ Văn Hiến trong bài Bình Ngô Đại Cáo của Đệ Nhất Công Thần Triều Lê: Nguyễn Trãi”, trong Đại Học Văn Khoa Saigon, Tập I. Huntington Beach: Dòng Việt, 1999, tr. 77-80.
[4] Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Viện Văn Học, Thơ Văn Lý-Trần, Tập III. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1978, tr. 196.
[5] “Xuân Nhật Yết Chiêu Lăng”, thơ Trần Nhân Tông (1258-1308), trong Ngô Tất Tố, Việt Nam Văn Học: Văn Học Đời Trần. Saigon, Khai Trí, 1960, tr. 189.
[6] Lời phê của Vua Trần Nhân Tông về việc Trần Anh Tông phong thưởng quá nhiều quan tước. Nguyên văn:”Một nước to bằng bàn tay, mà sao lại có triều ban nhiều như thế này!” Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, đã dẫn, tr.589; Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, bản dịch của Hoàng Văn Lâu. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1993, tr. 103-104.
[7] Lê Quý Đôn Toàn Tập, Tập III, Đại Việt Thông Sử, “Nghệ Văn Chí” , bản dịch của Ngô Thế Long, đã dẫn, tr. 100-101.
[8] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tập Một, đã dẫn.
[9] Trần Quốc Vượng, Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Văn Hóa Dân Tộc, Tạp Chí Văn Hóa Nghệ Thuật, 2000, tr. 754-755.
[10] Thơ Văn Lý-Trần, đã dẫn, Tập I, 1977, tr. 58.
[11] -nt-, tr. 58-59.
[12] Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư , năm Quang Thái thứ 5 thời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có dâng lên vua sách Minh Đạo gồm có 14 chương trong đó ông đã đưa ra nhiều nhận định mới và độc đáo. Đại khái “ông cho Chu Công là Tiên Thánh, Không Tử là Tiên Sư, ở Văn Miếu để Chu Công ở chính giữa, nhìn về phương nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương tây, sách Luận Ngữ có bốn chỗ đáng ngờ, cho Hàn Dũ là đạo nho, cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thi, La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Tử, tuy học rộng nhưng ít tài, không sát với sự việc, chỉ thạo việc cóp nhặt văn chương người xưa.” Những nhận xét này bị Ngô Sĩ Liên cho là “khinh suất bàn về ngài (Khổng Tử) thì thực là không biết lượng sức mình. Ta không biết lý luận của Quý Ly là như thế nào vì sách này không còn nữa nhưng dù sao nó cũng chứng tỏ lối học của họ Hồ là có suy nghĩ, phê bình chứ không máy móc, thụ động như sau này. Còn Vua Tự Đức thì cho rằng những nhận định này chưa phải đã hoàn toàn sai. Ngoài Minh Đạo, Quý Ly còn làm Quốc Ngữ Thi Nghĩa và viết bài Tựa để dạy cho các cung nữ. Sách này cũng có điểm đặc biệt là tác giả phần nhiều đã chép theo ý mình chử không theo tập truyện của Chu Tử. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, đã dẫn, tr. 184-185, 190. Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Chính Biên, Quyển Thứ XI, đã dẫn, tr. 688-689. – Chương Thâu, Góp Phần Tìm Hiểu Nho Giáo – Nho Sĩ – Trí Thức Việt Nam Trước 1945. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007, tr. 42.
[13] 1292-1370. Ngoài vai trò của một sư biểu của Việt Nam, Chu Văn An còn là tác giả của nhiều tác phẩm có giá trị trong đó có Tứ Thư Thuyết Ước, Tiều Ẩn Thi, Thanh Trì Quang Liệt Chu Thị Di Thư, Quốc Ngữ Thi, Thất Trảm Sớ.
[14] Tác giả khuyết danh đời Trần, Thế kỷ XIV, Việt Sử Lược, bản dịch và chú giải của Trần Quốc Vượng. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Văn Sử Địa, 1960.
[15] Lê Mạnh Thát, Nghiên Cứu Về Thiền Uyển Tập Anh.Saigon: Nhà Xuất Bản Thành Phố Hồ Chí Minh, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, tr.24.
[16] Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, đã dẫn, tr. 755.
[17] - như trên -, tr. 671-172.
[18] - như trên -, tr. 673.
[19] Thượng Tọa Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Huế, Minh Đức, 1960, tr. 86 và các trang liên hệ.
[20] Trích thơ của Nhà Nho Đặng Văn Bá , Thế Kỷ XX trước.
[21] Trích “Để Lại Cho Em”, Tâm Ca của Phạm Duy, Thập Niên 1960.
[22] Hoàng Cầm, Đêm Liên Hoan.

Phạm Cao Dương
Quận Cam, California, Kỷ Niệm Hai Bà Trưng năm thứ 1976,
Xuân Kỷ Hợi (2019).

Trong mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương Bắc, từ năm 1046 ttl, người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.

Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. 
Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc.


Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng!
LẦN THỨ 1: (1218 TTL = Trước Tây lịch) - ĐỨC PHÙ ĐỔNG ĐẠI THẮNG GIẶC ÂN
Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 trước tây lịch, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. 


Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn sông Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’. [Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu Thương].
Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại.

* Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh. 

Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre... đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ... và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.

[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển]

LẦN THỨ 2: (214 TTL) - ĐẠI THẮNG GIẶC TẦN
Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. 
Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa.

Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.*2

Theo cách hành quân của Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu phục dịch. Số người vận chuyển lương thực cũng không được kể là lính. Vì vậy, số người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp 3 lần con số quân lính được kể tới, dầu là con số trung thực.

LẦN THỨ 3: (181 TTL) - ĐẠI THẮNG GIẶC TÂY HÁN
Năm 181 ttl, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. 

Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc. Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!).*3
LẦN THỨ 4: (40 DL) - TRƯNG NỮ VƯƠNG ĐẠI THẮNG GIẶC ĐÔNG HÁN &TÁI CHIẾM TOÀN THỂ VÙNG ĐẤT LẠC VIỆT
Năm 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.

Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân... Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.


Đức Trưng Nữ Vương đáng được tôn hiệu ĐẠI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM.

LẦN THỨ 5: (541 DL) - NAM VIỆT ĐẾ LÝ BÔN ĐẠI THẮNG GIẶC LƯƠNG

Năm 541 dl Đức Nam Việt Đế, húy là Lý Bôn, đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập. Năm 544 xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.

Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta. Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.*5

LẦN THỨ 6: (938 DL) - NAM ĐẾ NGÔ QUYỀN ĐẠI THẮNG GIẶC NAM HÁ
N
Từ năm 906 dl, Đức Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.

Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Nam Đế, huý là Ngô Quyền, đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về.*6

LẦN THỨ 7: (981) - LÊ ĐẠI HÀNH ĐẠI THẮNG GIẶC TỐNG (LẤN 1)
Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. 


Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui.*7
LẦN THỨ 8: (1076) - LÝ NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG LÝ THƯỜNG KIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC TỐNG (LẦN 2)
Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.

Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về !*8
LẦN THỨ 9: (1258) - TRẦN THÁI TÔN ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG CỔ (LẦN 1)
Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.

Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].

Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo!”.

Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa.
LẦN THỨ 10: (1284) - TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG NGUYÊN (LẦN 2)
Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.

Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. 
Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.

Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân trấn giữ.

Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. 


Toàn thể đồng thanh xin Đánh.

Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An.

Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã!”

Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa.

Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không? ” Trần Bình Trọng quát to: “Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc!”

Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.

Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng Long.

Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.

Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới trốn thoát về Tàu.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo qua 50 vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về.
LẦN THỨ 11: (1287) - TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG NGUYÊN (LẦN 3)
Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân.

Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp. Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.

Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương.

Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl).

Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành.
LẦN THỨ 12: (1428) LÊ THÁI TỔ ĐẠI THẮNG GIẶC MINH
Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu...

Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.

Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, tức thành Thăng Long.

Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. 

Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. 
Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. 
Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. 
Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. 
Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.

Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. 

Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu lên hơn 10 vạn người.
LẦN THỨ 13: (1789) - QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ ĐẠI THẮNG GIẶC MÃN THANH.
Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. 

Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung.

Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. 

Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.

Đức Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long.

Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. 

Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi... 
Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. 
Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. 
Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. 
Tất cả đều chỉ trong 5 ngày.

TỔNG KẾT SƠ KHỞI
Như vậy, chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hằng ngàn đại tướng, và hơn 450 vạn quân sĩ. [Theo con số thông thường, tức là hơn 4.500.000 giặc]. 


Đang khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu... dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược.

Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng!

1. TRUNG HOA: TÊN KHỐN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI
Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn,Âu, chiếm đóng và thống trị.

Đáng chú ý hơn nữa, tuy tình hình thay đổi tùy thời, nhưng trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa đó, từ Kim, đến Mông, Mãn... lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội... cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời.

Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.
Ngoài ra, những nhóm người man di và ít ỏi đó, lại thống trị Trung Hoa vĩ đại tổng cộng hơn 500 năm.

Kim 108 năm (1126-1234 dl), Mông 134 năm (1234-1368 dl), Mãn 267 năm (1644-1911 dl), trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl).

Trong suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục, còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.

Thực vậy, Trung Hoa luôn là tên khốn khổng lồ chiến bại.
Nguyên nhân chính là ách thống trị của bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp.


Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người dân Trung Hoa chì là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.

2. ƯU THẾ CỦA CHÚNG TA
Hơn nữa, trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. 

Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu tới.

Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa! 


=>Tất cả 13 lần, đều đại thắng.

Về phần chúng ta, hiện nay, chúng ta lại đang được yểm trợ từ khắp nơi. 

Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế... mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. 
Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc Tàu.

Với bất cứ giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh lực Trung Hoa cũng không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch...

Hơn nữa, toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nôn nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu. Tinh thần dân tộc và đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ như hiện nay.

Mọi người đều sẵn sàng.
Cũng phải kể thêm mấy triệu người Việt trên thế giới cũng đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng... ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội... Tất cả đều được huy động tối đa để Đánh Giặc Tàu !

CHÚNG TA CŨNG SẼ ĐẠI THẮNG GIẶC TÀU LẦN THỨ 14...

Nguyễn Thành Đức


Nguồn gốc các dân tộc Việt Nam

Dân tộc Việt Nam là một danh từ chung để chỉ các dân tộc có vùng cư trú truyền thống là lãnh thổ nước Việt Nam hiện nay.

Nguồn gốc của các dân tộc ở Việt Nam chỉ mới được xác định cho một số dân tộc thiểu số mới hình thành hoặc di cư đến từ thời kỳ có sử, như H'Mông, Sán Dìu,... Đối với nhiều dân tộc, đặc biệt là nguồn gốc người Việt[a], thì còn ở mức giả thuyết. Các giả thuyết nguồn gốc các dân tộc được chia ra hai phái:
Giả thuyết bản địa cho rằng nguồn gốc chính từ người Việt bản địa, vốn là chủ nhân của các nền văn hóa thời kỳ đồ đá tại Việt Nam từ 7-20 Ka BP (Kilo annum before present, ngàn năm trước)

Giả thuyết thiên di cho rằng nguồn gốc của các dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ Tây Tạng hoặc Hoa Nam, di cư đến vào thời kỳ đồ đá muộn.Quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam





Theo các tài liệu phổ biến hiện nay thì quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:
Theo các nhà nhân chủng học, loài người được phân chia thành bốn đại chủng chính, đó là: Đại chủng Âu(Caucasoid; Europoid), Đại chủng Phi (Negroid), Đại chủng Á (Mongoloid), Đại chủng Úc (Australoid, hay còn gọi là Đại chủng Phương Nam). Vào khoảng 30 Ka BP, có một bộ phận thuộc Đại chủng Á sống ở tiểu lục địa Ấn Độ di cư về phía đông, tới vùng ngày nay là Đông Dương thì dừng lại. Tại đây, bộ phận của Đại chủng Á kết hợp với bộ phận của Đại chủng Úc bản địa và kết quả là sự ra đời của chủng Cổ Mã Lai (tiếng Pháp: Indonésien). Người Cổ Mã Laicó nước da ngăm đen, tóc quăn gợn sóng, tầm vóc thấp. Người Cổ Mã Lai từ vùng Đông Dương lan tỏa về hướng bắc tới sông Dương Tử; về phía tây tới Ấn Độ, về phía nam tới các đảo của Indonesia, về phía đông tới Philippines.

Cuối thời kỳ đồ đá mới, đầu thời kỳ đồ đồng (khoảng 5 Ka BP). Tại khu vực mà ngày nay là miền bắc Việt Nam, miền nam Trung Quốc (từ sông Dương Tử trở xuống), có sự chuyển biến do chủng Cổ Mã Lai tiếp xúc thường xuyên với Đại chủng Á từ phía bắc tràn xuống, sự chuyển biến này hình thành một chủng mới là chủng Nam Á (tiếng Pháp: austro-asiatique). Do hai lần hòa nhập với Đại chủng Á mà Chủng Nam Á có những nét đặc trưng nổi trội của Đại chủng Á hơn là những nét đặc trưng của Đại chủng Úc. Cũng chính vì thế Chủng Nam Á được liệt vào một trong những bộ phận của Đại chủng Á.

Thời kỳ sau đó, Chủng Nam Á được chia thành một loạt các dân tộc mà các cổ thư Việt Nam và Trung Hoa gọi là Bách Việt. Thực ra không có đến một trăm (bách) dân tộc nhưng quả thật đó là một cộng đồng dân cư rất đông đúc bao gồm: Điền Việt (cư trú tại Vân Nam, Trung Quốc), Sơn Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt (cư trú tại Quảng Đông, Trung Quốc), Âu Việt (cư trú tại Quảng Tây, Trung Quốc và vùng Việt Bắc Việt Nam), Lạc Việt(vùng đồng bằng Bắc bộ Việt Nam),... sinh sống từ vùng nam sông Dương Tử cho đến Bắc bộ (Việt Nam). Ban đầu, họ nói một số thứ tiếng như:[b] Môn-Khmer, Việt-Mường, Tày-Thái, H'Mông-Dao,... Sau này quá trình chia tách này tiếp tục để hình thành nên các dân tộc và các ngôn ngữ như ngày nay. Trong khi đó, phía nam Việt Nam, dọc theo dải Trường Sơn vẫn là địa bàn cư trú của người Cổ Mã Lai. Theo thời gian họ chuyển biến thành Chủng Nam Đảo. Đó là tổ tiên của các dân tộc thuộc nhóm Chàm.

Việc xác định về mặt địa lý có thể hình dung như sau:
Địa bàn cư trú của người Bách Việt là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, đỉnh là Bắc trung bộ, Việt Nam (xem hình, tam giác màu đỏ).

Địa bàn cư trú của người Bách Việt và Nam Đảo là một tam giác mà đáy là sông Dương Tử, đỉnh là đồng bằng sông Mê kông, Việt Nam (xem hình, tam giác màu vàng).

Địa bàn cư trú của hậu duệ người Cổ Mã Lai, mà ngày nay là phần lớn các cư dân Đông Nam Á là một vùng rất rộng kéo dài từ Ấn Độ đến Philippines theo chiều tây đông, và từ sông Dương Tử xuống đến Indonesia theo chiều bắc nam.
Các bằng chứng khảo cổ học

Xem thêm thông tin: Việt Nam thời tiền sử



Các nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam và Đông Dương có bề dày hơn một thế ký, là tư liệu chủ chốt trong tìm hiểu nguồn gốc các dân tộc. Nghiên cứu đã xác định ra các nền văn hóa cổ Việt Nam kế tiếp nhau từ 25 Ka BP (văn hóa Tràng An, văn hóa Ngườm) đến đầu công nguyên.

Một trong các bằng chứng nổi bật nhất chứng minh các dân tộc Đông Nam Á[3], trong đó có Việt Nam, có chung một thế hệ nguồn gốc đầu tiên là việc các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra rất nhiều điểm tương đồng về một nền văn hóa rất phát triển gọi là Văn hóa Hòa Bình (niên đại 14 - 12 Ka BP) ở rải rác các nơi ở Đông Nam Á như Việt Nam, Thái Lan và "vòng đảo Đông Nam Á". "Người Hòa Bình là ai?. Trong hang Con Moong còn tìm thấy nhiều hài cốt, đa số xương đã mũn nát, nhưng còn một bộ với răng sọ, cho thấy chủng tộc là Australoid negrito" (Nguyễn Đức Hiệp, 2012)[3].

Trong các văn liệu quốc tế "người Hòa Bình" (Hoabinhian) này còn được gọi là Proto-Malay, đã phân bố rộng khắp Đông Nam Á, với các phát hiện ở Tabon (Palawan, Philippines), ở hang Niah (Sarawak, Malaysia), và ở các hang Ma, hang Pa Chan, Moh-Kiew, Lang RongrienThái Lan. Họ cũng được xác định là có liên hệ về di truyền với các chủng người bản địa Úc hiện nay[3].

Dựa theo thuyết "rời khỏi châu Phi" (Out-of-Africa) thì Hoabinhian thuộc làn sóng di cư thứ nhất. Làn sóng di cư thứ hai, được nhắc đến trong văn liệu Malaysia là "người Malay thứ hai" (Deutero-Malay)[4] di cư đến thì Proto-Malay một phần bị đồng hóa, phần tuyệt diệt và phần còn sót lại đến ngày nay là những bộ tộc biệt lập người NegritoPhilippines, Malaysia, Andaman, và còn sót ở Đài Loan đến Tk 19[5]. Làn sóng di cư thứ hai dẫn đến vùng đông nam và đông châu Á nói chung, được định hình với các cư dân tổ tiên của các dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Đảo, Nam Á, Tai-KadaiHán-Tạng, từ Ấn Độ đi qua hành lang Bengal đến chiếm lĩnh, thay thế dần Hoabinhian và tạo ra các nền văn hóa trẻ hơn. Sự di cư đến tạo ra tình trạng các dân tộc với các ngôn ngữ khác nhau sống xen nhau.

Trường phái "phát triển liên tục" thì cho rằng các nền văn hóa cổ đã phát triển liên tục và kế tiếp nhau đến thời sơ sử. Cá biệt còn có ý kiến cho rằng từ "văn hóa Hòa Bình từ Đông Nam Á lan tỏa đến các vùng khác", coi Đông Nam Á là một trong số cái nôi phát triển của loài người, như Wilhelm G. Solheim (1972), Stephen Oppenheimer[6], và một số học giả trong nước. Tuy nhiên một số ý kiến xuất này hiện trước khi có tiến bộ trong ứng dụng sinh học phân tử. Và việc kiểm chứng bằng sinh học phân tử để xác định quan hệ tổ tiên của các di cốt, để xác định sự liên tục phát triển, thì chưa được thực hiện.

Dù ý kiến khác nhau, thì các bằng chứng khảo cổ học cho thấy các dân tộc chủ yếu hiện sống trên lãnh thổ Việt Nam, vào đầu thời sơ sử đã là các dân tộc bản địa. Khi đọc những câu hỏi “Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. Hoặc “Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?(1), nhiều người nghĩ chắc là ý kiến của những anh chàng người Việt nặng đầu óc dân tộc chủ nghĩa. Nhưng thật bất ngờ, những câu hỏi này và tương tự như vậy hiện là những chủ đề nóng của các diễn đàn tranh luận trên mạng Internet của người Trung Hoa, bằng tiếng Trung chứ không phải của người Việt.

Tượng Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia ở Linh Tiên Đạo Quán, Hoài Đức, HN.


Họ đã chất vấn nhau, đại loại thế này: Hơn một nghìn năm, trước khi nhà Tống lên ngôi, Giao Châu là thuộc Trung Hoa, dù chị em họ Trưng có nổi dậy cũng chỉ mấy năm là dẹp yên. Thế mà vì sao từ đời Tống trở đi các triều đại Trung Hoa không thể thu phục nổi Việt Nam. Hơn nữa, dân tộc Việt Nam, người Kinh ấy, từ đâu mà ra, hình thành từ lúc nào? Người Hán chúng ta từ cổ xưa đã có sức đồng hóa cực mạnh. Số dân tộc đã bị Hán tộc đồng hóa không đếm xuể. Tại sao chừng ấy năm đô hộ vậy mà không đồng hóa nổi Việt Nam… Nếu An Nam là thuộc Trung Quốc từ thời đó, liệu bây giờ quần đảo Nam Sa (VN gọi là Trường Sa) có thành vấn đề không? Việt Nam có còn chiếm được nhiều đảo ở Nam Sa như bây giờ không?

Là người Việt Nam, chắc ai cũng muốn chính mình tìm câu trả lời cho những câu hỏi thú vị đó. Chúng ta từng nghe nói rằng, từ xa xưa một dải giang sơn mênh mông từ Nam sông Dương Tử trở về Nam là nơi các tộc dân Việt sinh sống và phát triển nền văn minh lúa nước rực rỡ. Thế rồi ngày nay, hầu hết đều trở thành lãnh thổ và giang sơn của người Hán, dùng Hán ngữ và văn hóa Hán. Quá trình đó người ta quen gọi là Hán hóa. Vì vậy nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt, và quá trình Hán hóa Bách Việt, là một cách ôn cố tri tân hữu ích. Đáng tiếc là thời xa xưa đó lịch sử chủ yếu ghi chép lại bằng Hán ngữ cổ ở Trung Hoa, không dễ tiếp cận với đa số hiện nay. Vì lẽ đó người viết bài này cố gắng tóm tắt những gì mà sử sách cổ còn ghi lại, kết hợp với những tài liệu khoa học đã công bố của một số học giả uy tín trên thế giới, ngõ hầu cung cấp một vài thông tin hữu ích, nhiều chiều, kể cả còn đang tranh cãi.

Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.

Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).

Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.
Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

Sách Lộ Sử của La Bí (1131 - 1189) người đời Tống viết3: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú, Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.
Hán Hóa Bách Việt - Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán

Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 - 1083 TCN). Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 - 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam. Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.

Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc - Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 - 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký - thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân - Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.

Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 - con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 - hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô - Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh - tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Hán hóa Bách Việt- Giai đoạn sau thời Tần-Hán

Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9, còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam... gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…

Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.

Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần - Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.

Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh - Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.

Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp. Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.

Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.

Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.

Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.

Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25. Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.

Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 1 - Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người. 2 - Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóa, người Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:
* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.

* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.

* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa. Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:
* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.

* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:
* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.

* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.

* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.
(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).

Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.
1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.

2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.

3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nay. Hãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.

Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần... Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.
Các bằng chứng nhân chủng học

Các bằng chứng sinh học phân tử
Những thành tựu về di truyền họcsinh học phân tử trong sinh học đã cung cấp phương tiện hàng đầu cho nghiên cứu tiến hóa của loài người[c], cũng như tiến hóa của sinh giới nói chung. Theo dõi các biến dị trong bộ mã di truyền cho phép xác định sự tiến hóa và phát tán các quần thể người. Trong số đó thì nghiên cứu các vùng mã di truyền sau đây có ứng dụng đặc biệt:[d]

Đường phát tán loài người theo các nhóm đơn bộimtDNA (dòng mẹ) theo Kalevi Wiik (2008)[7]. Phần màu trắng là đất liền vào thời kỳ băng hà 10 Ka về trước, nay bị chìm dưới biển.

Đường phát tán loài người theo các nhóm đơn bội Y-ADN (dòng bố) theo Kalevi Wiik (2008)[7].

Vùng không tái tổ hợp trên nhiễm sắc thể Y (NRY), gọi là các nhóm đơn bội Y-ADN, là các mã di truyềnchỉ truyền theo dòng đực, nhờ đó truy tìm được phả hệ theo bố của cá thể đực. Nó dẫn đến kết luận về ông Adam nhiễm sắc thể Y, tổ phụ gần nhất của tất cả nam giới hiện nay trên thế giới, sống vào cỡ 100 đến 300 Ka BP tại châu Phi.[8][9]

ADN của ty thể, hay mtDNA, là các mã di truyền chỉ do mẹ truyền cho con (gái & trai), nhờ đó truy tìm được phả hệ theo mẹ của cá thể cái. Nó dẫn đến kết luận về bà Eve ti thể, tổ mẫu gần nhất của tất cả phụ nữ hiện nay trên thế giới, sống vào cỡ 100-200 Ka BP tại châu Phi.[10][e]

Ngoài ra, các yếu tố như nhóm kháng nguyên bạch cầu (HLA, Human Leucocyte Antigen), dấu chỉ bàn tay,... là biểu hiện của mã di truyền nhưng dễ đo dạc hơn, cũng được sử dụng.

Việc so sánh gen trong di cốt cổ với người hiện đại thì phục vụ truy tìm quan hệ tổ tiên và hậu duệ. Nếu thực hiện thì sẽ xác định được chủ nhân các nền văn hóa cổ, ví dụ ở bán đảo Đông Dương là ai, có liên tục đến nay hay không.

Các nghiên cứu còn thực hiện ở các động thực vật nuôi trồng mà họ mang theo, thậm chí cả vi khuẩn trong bao tử,... Những nghiên cứu này xác định Đông Nam Á là cái nôi thực hiện thuần hóa lúa châu Á Oryza sativa [11] từ lúa hoang Oryza rufipogon từ 8-13 Ka BP.[f] Có tài liệu nói đến thuần hóa lợn từ 9 Ka BP, nhưng nguồn dẫn chứng thiếu rõ ràng.

Phân bố hiện nay của các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á, gợi ý hình dung quá trình đông tiến của proto-Austro-Asiatic từ Ấn Độ

Kết quả nghiên cứu sinh học phân tử dẫn đến mô hình được chấp nhận rộng rãi nhất và hợp lý nhất về sinh học, là thuyết "rời khỏi châu Phi" (Out-of-Africa). Thuyết này cho rằng loài người hình thành ở châu Phi và phát tán ra khắp thế giới theo nhiều đợt[12], thể hiện thống trị trên các trang wiki về "Human evolution". Nó làm đảo lộn nhiều giả thuyết trước đây vốn dựa trên thuyết nguồn gốc đa vùng.

Đợt phát tán đầu tiên là cuộc vượt Biển Đỏ của cỡ 150-300 người, xảy ra vào quãng giữa 120 - 60 Ka BP, chiếm lĩnh vùng Cân Đông. Họ phát triển và phát tán về phía đông, đến tận Úc, thể hiện ở hóa thạch Mungo Man tuổi 40 Ka, và là tổ tiên của thổ dân châu Úc (Aborigine) hiện nay. Rosenberg và các nhà khoa học TQ (2002) thì công bố hóa thạch người tại Liu Jiang (Quảng Tây, TQ, phát hiện 1958) định được tuổi là 67 Ka?[13]. Mặt khác các học giả nói chung đã cho rằng thổ dân Úc không phải là họ hàng gần nhất của một số nhóm người Nam Á hoặc nhóm châu Phi. Mô hình di cư cho thấy tại nơi mà tổ tiên của họ đi qua Nam Á đến Australia mà không pha lẫn di truyền với các quần thể khác trên đường đi[14]. Kỹ thuật di truyền cho thấy hồi 60 Ka BP, số lượng người hiện đại trên toàn hành tinh chỉ khoảng 10 ngàn trong độ tuổi sinh sản[15]. Điều này cho thấy hồi 40 Ka BP thì vùng đông & nam Á tới Australia đã có người nhưng với mật độ thưa thớt. Họ là những Hoabinhian hay "Proto-Malay", bộ phận còn sót đến ngày nay là những người Negrito.

Liên quan đến đợt di cư sau tới vùng Đông Á thì nghiên cứu gen của Chu J.Y. và cộng sự (1998), cho ra nhiều ý nghĩa[16], thể hiện ở nhận xét "Phát sinh chủng loài học cũng cho rằng có nhiều khả năng tổ tiên của người hiện đang cư trú tại khu vực Đông Á đến từ Đông Nam Á". Các nghiên cứu Y-ADN sau này (2007)[17] thì cho thấy "Sự phổ biến của nhóm đơn bội O1 Y-ADN trong số các sắc tộc Nam ĐảoTháicũng gợi ý về nguồn gốc tổ tiên chung với các dân tộc Hán-Tạng, Nam ÁH'Mông-Miền vào khoảng 35 Ka BP tại Trung Quốc". Điều này phụ họa với thuyết Out-of-Africa, rằng các nhóm thuộc pro-mongoloid đã hình thành đâu đó ở phía đông của vùng Trăng lưỡi liềm màu mỡ (Fertile Crescent) đến vùng sông Hằng, và đã đông tiến, một bộ phận theo đường Altai đến trung-bắc Á, còn bộ phận khác qua Ấn Độ đến đông và đông nam Á. Bằng chứng khảo cổ cho thấy người tiền sử đến nam Trung Quốc qua đường Vân Nam từ hơn 30 Ka BP.

Các nghiên cứu gen tốn kém nên tại Việt Nam ít được thực hiện. Một số được thực hiện với sự tài trợ của nước ngoài (Pháp), như nghiên cứu ADN của Vu - Trieu (1997)[18] hay nghiên cứu mtDNA của Ivanova (1999)[19] lại cho ra kết quả [g] bị phê phán, vì đã chọn số genít, không đặc trưng[20], và đặc biệt là lấy mẫu từ người Kinh ở Hà Nội, vốn có nguồn gen phức tạp, có sự tiếp nhận gen từ dòng người Hoa nhập Việt qua ngàn năm bắc thuộc và ngàn năm phong kiến sau đó. Đáng ra họ phải lên vùng núi mà lấy mẫu ở người Mường.

Dẫu vậy thì các nhà nghiên cứu vận dụng thành tựu trung của thế giới về thuyết Out-of-Africa, cho rằng xác suất nguồn gốc người Việt từ phương bắc xuống là gần bằng 0. Nguồn gốc các dân tộc cần xác định ở dòng chảy chung của quá trình phát tán đông tiến của những người proto-Austro-Asiatic từ tiểu lục địa Ấn Độ bắt đầu vào cỡ 30-40 Ka BP, lúc xảy ra các chủng Indo-European xâm lấn. Trên đường phát tán chung thì một số thị tộc proto-Austro-Asiatic trụ lại đâu đó và tồn tại đến ngày nay ở phía đông Ấn Độ, như các chủng nói tiếng Munda, Khasi thuộc ngữ hệ Nam Á. Bộ phận lớn thì chiếm lĩnh dải từ nam Myanmar, trung Thái Lan đến phía đông bán đảo Đông Dương, phát triển thành các dân tộc Môn-Khmer hiện nay.[h][21]

Các bằng chứng ngôn ngữ
Ngôn ngữ có vai trò thiết yếu trong việc phân loại các tộc người và theo dõi sự tiến hóa của các nhóm cư dân gần gũi nhau về mặt nhân chủng, được khẳng định là bằng chứng chỉ đứng sau di truyền học bởi những nhà nghiên cứu hàng đầu như L. Cavalli-Sforza[22]. Nó xác định các dân tộc có điểm chung trong ngôn ngữ thì trong quá trình phát triển đã từng chia sẻ không gian chung nào đó.

Dấu hiệu ngôn ngữ trong tiếng Hoa
Một số nhà nhân chủng ngôn ngữ học đã xác định "một số từ Trung Quốc có gốc rễ từ các từ Việt cổ", như "giang" (江) có nghĩa là sông (như trong Dương Tử Giang). 越, 粵, 鉞 trong chữ Hán cổ đều có âm là "việt" và cùng nghĩa có thể thay thế lẫn nhau được. Ngày nay 鉞, "lưỡi rìu dùng trong nghi lễ" và có thể tìm thấy rất nhiều ở Hàng Châu, Chiết Giang, là một phát minh của phương Nam; 粵 là tên gọi tắt cho tỉnh Quảng Đông; còn 越 chỉ Việt (Việt Nam) hoặc khu vực bắc Chiết Giang bao quanh Thiệu HưngNinh Ba. Các tên gọi có thể có nguồn gốc phương Nam như Thần Nông, Nữ Oa vì không theo ngữ pháp tiếng Hoa.

Những biểu hiện này được các nhà nghiên cứu nói trên coi là bằng chứng về lãnh thổ Việt cổ ở phương bắc, cũng như để truy tìm cội nguồn dân tộc. Tuy nhiên nó không có tiếng vọng tới các nghiên cứu và văn liệu quốc tế. Nó thể hiện có các điểm yếu:
Quá trình bành trướng và đồng hóa của người Hoa về phương nam được sử sách Trung Quốc ghi chép, gọi tên vùng là "Bách Việt", và tiếng nói của vùng là tiếng Hoa theo phát âm địa phương và hiện được gọi là "Việt ngữ" (Yue Chinese) mà ở Việt Nam gọi là tiếng Quảng Đông. Trong quá trình bành trướng thì một số từ ngữ hay địa danh được giữ nguyên và sử dụng. Các nghiên cứu của Chu J.Y.[16] cũng xác nhận giữa người Hán nam với người Hán bắc có sự khác nhau về một số gen.

Việc coi Bách Việt là cương vực của người Việt cổ thì là chủ đề tranh cãi, vì rằng vùng này vốn có nhiều sắc dân thuộc các ngữ hệ phương nam khác nhau sinh sống, người Âu Việt hay Lạc Việt chỉ là một bộ phận.

Ý tưởng nghiên cứu xác định bằng chứng về cương vực Việt cổ theo truyền thuyết "phía bắc giáp hồ Động Đình" thì bất khả thi, đơn giản là cư dân ở hồ Động Đình đã Hán hóa không ủng hộ nữa.

Dấu hiệu từ quá trình phát triển của tiếng Việt

Tiếng Việt đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước xác định là thuộc ngữ chi Việt (Vietic)[23] cùng với tiếng Mường và tiếng của một số sắc dân thiểu số Nguồn, Chứt (Cheut), Pọng ở dãy núi Trường Sơn hay Thaveung (Aheu), Arem, Maleng,... ở trung & nam Lào, thuộc khối Việt-Katu của Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer, trong ngữ hệ Nam Á (Austro-Asiatic Languages), cũng như tiến trình phát triển và phân nhánh ngôn ngữ:Austro-Asiatic → Đông Môn-Khmer → proto Việt-Katu → proto Việt Chứt → Việt Mường chung (thời các vua Hùng) → Phân tách Việt Mường (Tk 12).

Quá trình phân tách tiếng Việt với tiếng Mường diễn ra từ Tk 7-8 và kết thúc ở Tk 12 (thời nhà Lý). Sự phân tách người Kinh khỏi khối Việt-Mường được xác định là do ảnh hưởng của quá trình Hán hóa cả về ngôn ngữ và di truyền. Nó cho thấy nghiên cứu sinh học phân tử ở người Kinh dễ bị lỗi nếu không chọn được cách lấy mẫu phù hợp. Các luận bàn về ngôn ngữ được nêu ở một đoạn ở bài của Bùi Xuân Đính.[24]

Tiến trình này cho thấy nguồn gốc các dân tộc Việt cổ gắn với sự phát tán đông tiến của các dân tộc Nam Á, đặc biệt là nhóm Môn-Khmer, và là phù hợp với bằng chứng sinh học phân tử và thuyết "từ châu Phi". Trong quá trình đông tiến này, phần lớn dân nhóm Môn-Khmer tiến đến trung phần bán đảo Đông Dương. Riêng các thị tộc "proto Việt Chứt" đã hình thành ở đâu đó, rồi sau đó, bộ phận tiến đến vùng Bắc Việt ngày nay hình thành ra người Việt Mường cổ, còn các thị tộc tổ tiên của người Thaveung (Aheu), Arem, Maleng,... dừng lại ở trung & nam Lào, còn người Nguồn, Chứt (Cheut), Pọng thì đến dãy núi Trường Sơn, Quảng Bình.

Tuy nhiên việc lắp ráp thời gian, địa điểm và bằng chứng trực tiếp về các sự kiện thì chưa giải được. Đó là do "giới hạn hiện hành của các phương pháp ngữ học khi truy ngược về quá khứ là 9.000 năm". Trong khi đó các động vật có vú sống theo dạng xã hội đàn nhỏ, như họ cá heo, linh cẩu, tinh tinh,... đã có bộ tín hiệu âm thanh với vốn trăm từ để giao tiếp và phân biệt đàn với nhau, còn người tiền sử thì đã có khả năng ngôn ngữ từ 200 Ka BP, thể hiện ở giải phẫu xương hàm (xem: Thời tiền sử/ Thời đại đồ đá cũ giữa). Sự phân dị ngôn ngữ đã bắt đầu từ 100 Ka BP[25]. Các hành vi hiện đại gồm ngôn ngữ và sự nhận thức tinh vi xuất hiện vào cỡ 50 Ka BP. Điều này cho thấy vào lúc hình thành các ngữ hệ thì các nhóm chủ nhân tương ứng, đã cư trú ở các lãnh thổ tách biệt nhau, xa hay gần tùy theo sự khác nhau của ngữ hệ. (Xem: Nguồn gốc ngôn ngữ) Sau này khi đông tiến diễn ra, các thị tộc phát tán theo lựa chọn của riêng họ, thì các cư dân thuộc ngữ hệ khác nhau mới sống xen kẽ nhau giống như hiện nay. Sự tương tác giữa các ngôn ngữ cũng đã diễn ra theo cả hai hướng:
Các thị tộc "cởi mở' dễ dàng tiếp nhận và vay mượn từ ngữ, cao nhất là đổi sang sử dụng ngôn ngữ phổ biến của vùng cư trú (hiện tượng cùng ngôn ngữ khác nhân chủng).

Các thị tộc/bộ lạc bảo thủ, không chấp nhận sự xâm nhập của kẻ lạ, và ngôn ngữ là dấu hiệu hàng đầu để phân biệt.

Tính bảo thủ trong ngôn ngữ lẫn phong tục dẫn đến ở phương đông có hàng ngàn ngôn ngữ/dân tộc khác nhau, trong đó có ngôn ngữ chỉ có vài trăm người nói (đang bị mai một do toàn cầu hóa). Bảo thủ ở mức cực đoan là các bộ lạc người Negrito hiện đang sống biệt lập, sẵn sàng giết những người xâm nhập, như ở Papua New Guinea, hay người Sentinelquần đảo Andaman.

Các bằng chứng văn hóa dân gian
Nước Văn Lang năm 500 TCN


Các truyền thuyết
Truyền thuyết "Con Rồng cháu Tiên" nói về nguồn gốc của dân tộc Việt.
Nguồn gốc dân tộc Việt bắt đầu từ họ Hồng Bàng. Vị vua đầu tiên là Kinh Dương Vương(vua nước Xích Quỷ) hiện còn có mộ tại làng An Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông lên làm vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (2879 TCN) sau đó lấy bà Long Nữ (con gái Thần Long là vua Hồ Động Đình), sinh hạ được Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua, lấy hiệu là Lạc Long Quân, lấy bà Âu Cơ (con gái Đế Lai) sinh ra 100 trứng, nở ra 100 người con. Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau. Hai ông bà đồng ý chia hai số người con; năm mươi người con theo mẹ lên núi, số còn lại theo cha xuống biển. Sau đó, nước Xích Quỷ chia thành nhiều nước gọi là Bách Việt. Một trong các nước nhỏ này là nước Văn Lang. Lạc Long Quân về sau phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng hiệu là Hùng Vương thứ 1, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Vĩnh Phúchoặc Phú Thọ). Dòng dõi Hùng Vương lưu truyền được 18 đời, đến đời Hùng Vương thứ 18 thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Trích Đại Việt Sử ký toàn thư khắc ở bia lăng Kinh Dương Vương như sau: Kinh Dương Vương tên huý là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, tinh thần đoan chính, sức khoẻ phi thường. Kinh Dương Vương hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879 TCN) đặt quốc hiệu là Xích Quỷ (tên một vì sao sắc đỏ rực rỡ, sáng nhất trong 28 vì sao của dải ngân hà) đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Hống, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Bờ cõi đất nước được xác định. Phía Bắc giáp Động Đình Hồ, phía Tây giáp Ba Thục (Trung Quốc), phía Nam giáp Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Đông giáp biển Nam Hải. Kinh Dương Vương lấy thần Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân (tên huý là Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là bà Âu Cơ sinh ra 100 con trai. Con cả là Hùng Quốc Vương (Hùng Đoàn) hiện đền thờ tại đền Hùng, Phú Thọ.

Cụm di tích lăng và đền thờ Kinh Dương Vương ở làng An Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh là chốn linh thiêng bậc nhất được xếp vào loại miếu thờ đế vương các triều đại từ cổ xưa. Đây là nơi duy nhất ở Việt Nam dựng lên để tưởng nhớ Thủy tổ người Việt là Kinh Dương Vương (cha của Lạc Long Quân, ông nội Vua Hùng). Phía trước phần mộ Kinh Dương Vương cổ có hai chữ Bất Vong, nghĩa là không bao giờ bị lưu lạc. Phía dưới hàngngang có năm chữ: "Ái Quốc Mạc Vong Tổ". Phía hậu lăng là bức Nam Tổ Miếu. Hai bên lăng có đôi câu đối ghi: "Quốc Thống Khai Nam Phục/ Bi Đình Kỷ Thành Công". Giữa lăng là bia đá khắc ba chữ Kinh Dương Vương đã được vua Minh Mạng năm thứ hai mươi mốt trùng tu lần cuối cùng vào năm 1840. Phía bên ngoài lăng có đôi câu đối: "Xích Quỷ sơ đồ xuất/ Hồng bàng vạn đại sương". Các nhà khảo cổ và văn hóa khi về đây nghiên cứu sắc phong và phần mộ cổ đều công nhận: "Đây là chốn linh thiêng bậc nhất được xếp vào loại miếu thờ đế vương các triều đại cổ xưa".

Các tập tục

Các tập tục: ăn trầu, nhuộm răng,... hiện diện ở các dân tộc vùng nhiệt đới, nơi trầu cau phát triển, từ Ấn Độ qua Đông Nam Á đến thổ dân Đài Loan, và người Austronesia ở các đảo phía nam. Những dân tộc này có ngôn ngữ thuộc hai ngữ hệ Nam ÁNam Đảo.

Tập tục ăn trầu, và tích "Kulabob và Manup" tương tự như Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Trầu Cau ở Việt Nam, có mặt ở những vùng xa phía nam như New Guinea, được Stephen Oppenheimer nêu trong cuốn “Địa đàng ở phương Đông”.[26]
Những dấu tích này gợi ý đến tổ tiên của các dân tộc đã từng chia sẻ không gian chung ở đâu đó, có thể là Ấn Độ như nghiên cứu "Y-ADN, 2007" đã nêu[17].

Các giả thuyết
Hiện giờ các một số giả thiết được cho là có khả năng dựa trên truyền thuyết cũng như các chứng tích khảo cổ.

Thuyết thứ nhất
Theo một số học giả Pháp: Thuyết này cho rằng người Việt Nam phát tích từ xứ Tây Tạng[2] rồi dọc theo sông Nhị Hà tràn xuống miền trung châu Bắc Việt và phía Bắc xứ Trung Việt ngày nay. Sau những người này theo đà ấy tiến dần về phía Nam. Ngày nay qua nhiều nghiên cứu khảo cổ, khai tích, sử sách cho thấy thuyết này sai lầm[27].

Thuyết thứ hai
Theo học giả người Pháp - Louis Finot (1864-1935): Thuyết này dựa trên kiến thức chung về quá trình giống Indonesian (Cổ Mã Lai) xưa cư trú ở tiểu lục địa Ấn Độ, bị giống Aryan (nay gọi là Indo-European) xâm lấn (hồi 30 - 50 Ka BP), nên phải chạy sang phía đông, trong đó có bán đảo Trung Ấn.

Finot cho rằng tại phía đông bắc bán đảo, giống Indonesian hợp với giống Mongolian làm thành giống Việt Nam.[28]

Thuyết này đề cập đến nguồn gốc dân tộc Việt từ thời đại đồ đá, từ 7 Ka BP trở về trước, trong quá trình phát tán chung của loài người. Tuy nhiên nó không giải thích được thành tố ngôn ngữ khi "hợp giống", tức là từ vựng cơ bản của "giống Việt Nam" phải chứa một lượng nào đó từ vựng của các giống gốc, nên không được một số học giả tán thành.[29]

Để ý rằng "hợp giống" hay "hòa huyết" là cách duy nhất các nhà cổ nhân chủng trước đây sử dụng để giải thích sự hiện diện của một chủng tộc có các biểu hiện nhân chủng trung gian nằm giữa hai chủng tộc khác trên nền tảng của thuyết nguồn gốc đa vùng của người hiện đại. Ngày nay dựa trên thuyết "một trung tâm từ châu Phi", các chủng tộc tiến hóa theo mô hình cây tiến hóa xác định theo các bằng chứng sinh học phân tử và tiến hóa của ngôn ngữ, mà không cần đến cách giải thích "hợp giống". Vì thế bỏ qua điểm yếu "hợp giống" thì giả thuyết Finot là hợp lý.

Nó được diễn giải là hơn 30 Ka BP các giống Indonesian phát tán từ tiểu lục địa Ấn Độ về phía đông[i]. Một bộ phận qua Vân Nam lên Trung Quốc như Chu J.Y. đã nêu[16]. Các nhóm Môn-Khmer phát tán đến dải từ nam Myanmar, trung Thái Lan[h] đến bán đảo Đông Dương, và là tổ tiên của 21 dân tộc thuộc nhóm này tại Trung phần Việt Nam. Một phần nhóm Môn-Khmer phía đông, gồm proto-Khmu và proto-Vietic đã đi xa hơn về phía đông bắc bán đảo Đông Dương, trong đó cư dân proto-Vietic chiếm lĩnh được vùng trung du và đồng bằng Bắc Việt[j] nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển. Những thị tộc proto-Vietic chọn hướng phát tán khác, hay trụ lại đâu đó giữa quá trình phát tán, ít phát triển nhưng vượt qua được thời gian và còn tồn tại đến ngày nay, là các dân tộc thiểu số như Nguồn, Chứt, Thaveung (Aheu), Arem, Maleng,... ở dãy núi Trường Sơn và trung & nam Lào.[30]

Thuyết thứ ba
Theo sử sách Trung Hoa, Việt Nam: Giả thuyết được phổ biến rộng rãi nhất nói rằng người Việt Nam xưa gốc ở miền từ hạ lưu sông Dương Tử tới miền bắc Việt Nam, gồm nhiều nhóm cư trú ở các nơi khác nhau mà gọi chung là Bách Việt. Về sau bị người Hoa Hạ tràn xuống xâm lấn lãnh thổ, các nhóm này dần dần bị đồng hóa thành người Hán. Chỉ còn nhóm Lạc Việt ở miền Bắc Việt Nam là còn tồn tại được, chính là tổ tiên của người Việt ngày nay.

Thuyết này đã coi Bách Việt là cư dân bản địa[1], mà không đề cập đến nguồn gốc các dân tộc này từ thời đại đồ đá (7 Ka BP) trở về trước.

Biến động dân tộc từ khi giành độc lập

Phần này có độ chính xác chưa xác định. Xem trang thảo luận để biết thêm về điều này.
Người Việt Nam đang sống trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay là tập hợp các cộng đồng người Kinh chiếm đa số (82%) và 53 cộng đồng người thuộc sắc tộc thiểu số. Người Kinh không phải là một cộng đồng dân tộc thuần nhất về mặt nguồn gốc, mà là tập hợp của hàng chục sắc tộc đã từng lai tạp đồng hóa với nhau trong quá khứ của ba cộng đồng chính, nhưng ngày nay đều có chung một đặc tính thống nhất về phong tục tập quán và sử dụng hoàn toàn Việt ngữ.[k] Nghiên cứu di truyền nhân chủng học chỉ ra rằng cả ba cộng đồng người Việt khá thuần nhất và khoảng cách di truyền gần với những người nói tiếng Tày-Thái (bao gồm những người Tày Nùng ở Việt Nam và Choang ở Trung Quốc) hơn là những người Chăm hay Khmer[31].

- Người Việt miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ:[cần dẫn nguồn] là cộng đồng người Việt cổ thuộc tiểu chủng Mongloid phương Nam, cư trú từ xa xưa trên châu thổ sông Hồng, sông Mã và sông Cả (đồng bằng sông Hồng và Thanh Nghệ Tĩnh) thuộc nền văn minh Đông Sơn, lai tạp với thiểu số các sắc dân Tây Âu (nói tiếng Tày Thái), cũng như các sắc dân Bách Việt (Mân Việt, Đông Âu) và người Hán phương Bắc.

- Người Việt miền Nam Trung Bộ:[cần dẫn nguồn] là cộng đồng người thuộc tiểu chủng Mongloid phương Nam, cư trú trên lãnh thổ thuộc các triều đại Champa từng tồn tại trên lãnh thổ miền Trung Việt từ Quảng Bình đến Bình Thuận ngày nay, thuộc nền văn minh di chỉ Sa Huỳnh. Những sắc dân cổ ở đây bị lai tạp với một lượng đa số người Việt miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ (phần lớn là lưu dân Thanh Nghệ Tĩnh) và thiểu số Trung Hoa từ phía bắc di cư xuống, với người Khmer và Ấn Độ từ phía tây di cư sang, sau đó chấp nhận chánh sách cưỡng bức đồng hóa của triều đình Đại Việt, hoàn toàn trở thành người Kinh, sử dụng Việt ngữ và theo phong tục tập quán của người Việt chiếm đa số đến từ miền Bắc.
- Người Việt miền Nam Bộ:[cần dẫn nguồn] là cộng đồng người thuộc tiểu chủng Mongloid phương Nam, cư trú trên lãnh thổ thuộc các triều đại Phù Nam từng tồn tại trên châu thổ sông Cửu Long ngày nay, thuộc nền văn minh di chỉ Óc Eo. Những sắc dân cổ này lại lai tạp với một thiểu số người Khmer từ phía bắc di cư xuống sau khi Vương quốc Phù Nam bị người Khmer thôn tính, rồi lại tiếp tục lai tạp với một đa số người Việt miền Nam Trung Bộ, một số nhỏ người Việt miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ và sắc dân Nam Trung Hoa từ phía đông bắc di cư xuống, chấp nhận chính sách cưỡng bức đồng hóa của triều đình Đàng Trong-Việt Nam-Đại Nam, hoàn toàn trở thành người Kinh, sử dụng Việt ngữ và theo phong tục tập quán thống nhất của người Việt miền Bắc và miền Trung.
Mỗi khi bộ phận người này bị hoạn nạn, như thiên tai bão lụt hạn hán thì kêu gọi: ‘Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn’. Lập tức người trong nước đều cùng nhau quyên góp cưu mang đùm bọc.

Dưới thời vua Minh Mạng áp dụng chính sách thống nhất dân tộc để dễ cai trị, gọi chung ba cộng đồng cùng sử dụng Việt ngữ (Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ) là người Kinh, tức người do Kinh đô Huế trực trị và đã hoàn toàn thuần phục, để phân biệt với các sắc dân mà triều đình Huế gọi là “man di” chưa được hoàn toàn giáo hóa, thường sống tự trị và tập trung ở vùng rừng núi, thường gọi là người Thượng,...


37 năm ngày Tổng động viên chống quân Trung Quốc xâm lược

37-nam-ngay-tong-dong-vien-chong-quan-trung-quoc-xam-luoc
Đồ họa chiến sự năm 1979

Nghe lại bản tin kêu gọi cả nước chống Trung Quốc năm 1979

Ngày 5/3/1979, trong tình thế cấp bách chống quân Trung Quốc xâm lược biên giới phía Bắc, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng đã ra lệnh tổng động viên toàn quân, toàn dân kháng chiến.

Toàn văn Lời kêu gọi của Ban chấp hành Trung ương Đảng ban bố ngày 4/3/1979 được đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 9/3/1979 - Tư liệu Tuổi Trẻ

Theo Đại cương lịch sử Việt Nam tập 3, từ sáng 17/2, Trung Quốc cho quân đội với lực lượng 32 sư đoàn (tương đương 60 vạn quân), 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối mở cuộc tiến công nước ta dọc theo biên giới phía Bắc - từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Phong Thổ (Lai Châu) dài hơn ngàn cây số.

Báo cáo của Hội đồng Chính phủ năm 1979 khẳng định cuộc chiến này được đối phương tiến hành theo một kế hoạch đã chuẩn bị từ lâu.

Theo đó, dựa vào số quân rất đông, quân đội Trung Quốc đã cùng một lúc tiến công trên nhiều hướng, lấy ba hướng Cao Bằng, Lạng Sơn, Hoàng Liên Sơn làm trọng điểm.

Các hướng đều tập trung lực lượng rất lớn, kết hợp bộ binh, pháo binh với xe tăng, tiến công ồ ạt đánh liên tiếp hết đợt này đến đợt khác, không kể thương vong.

Họ muốn mau chóng phá vỡ các trận địa phòng thủ, đập tan sự kháng cự của lực lượng vũ trang ta, nhanh chóng chiếm lấy các mục tiêu đã định, đặc biệt là chiếm lấy các thị xã Cao Bằng, Lạng Sơn và Lào Cai trong vòng một, hai ngày.

Trước tình hình cấp bách đó, ngày 4/3/1979, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc.

Sáng 5/3, chương trình phát thanh 90 phút thường ngày của Đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin đặc biệt kêu gọi: "Hỡi đồng bào và chiến sĩ yêu quý! Quân thù đang giày xéo non sông, đất nước ta. Độc lập, tự do, chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm. Hòa bình và ổn định ở Đông Nam châu Á đang bị đe dọa. Dân tộc Việt Nam ta phải ra sức chiến đấu để tự vệ... Toàn thể đồng bào các dân tộc anh em trong cả nước, các tôn giáo, các đảng phái, già, trẻ, gái, trai hãy phát huy truyền thống Diên Hồng, triệu người như một, nhất tề đứng lên bảo vệ tổ quốc".

Nhân kỷ niệm 37 năm ngày ban hành Lệnh tổng động viên chống quân Trung Quốc xâm lược và ngày Đài tiếng nói Việt Nam phát bản tin đặc biệt, xin mời bạn đọc nghe lại bản tin này.



Clip Lệnh tổng động viên đọc trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 5/3/1979 - Nguồn: youtube




Ngay trong ngày, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên bất thường dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh.

Theo đề nghị của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra quyết định tổng động viên trong cả nước.

Quyết định ghi rõ: Điều 1: Tổng động viên trong cả nước. Mọi công dân trong lứa tuổi do luật định đều phải gia nhập lực lượng vũ trang theo kế hoạch của Hội đồng Chính phủ; Huy động mọi nhân lực, vật lực, tài lực cần thiết để đảm bảo nhu cầu của cuộc kháng chiến cứu nước.

Điều 2: Hội đồng chính phủ có kế hoạch và biện pháp cụ thể để thực hiện quyết định tổng động viên này.
Nội dung quyết định tổng động viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội đăng trên báo Nhân Dân ngày 6/3/1979

Cùng ngày, Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng ký sắc lệnh 29 - LCT ra lệnh tổng động viên trong cả nước.

Hội đồng Chính phủ ban hành nghị định về việc thực hiện quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân. Trong đó, yêu cầu nam từ 18-45 tuổi, nữ từ 18-35 tuổi có đủ điều kiện, đều gia nhập hàng ngũ du kích và tự vệ.

Ngoài ra, ai tự nguyện đều được đưa vào tổ chức vũ trang quần chúng. Khi xảy ra chiến sự ở địa phương, trừ những người được phép sơ tán đi nơi khác, còn tất cả mọi người phải ở lại làm nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Tuy nhiên, ngày 5/3/1979, Trung Quốc đã tuyên bố rút quân về nước.
Quyết định tổng động viên của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước được đăng trên báo Nhân Dân ra ngày 6/3/1979

Theo TS Nguyễn Mạnh Hà, viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, nguyên đại tá, chính ủy sư đoàn 308 anh hùng, nhiều năm là viện phó Viện Lịch sử quân sự (Bộ Quốc phòng), cuộc chiến tranh biên giới chính thức kéo dài chỉ 17 ngày, từ 17/2 đến 5/3/1979. Nhưng những cuộc xung đột còn kéo dài đến tận năm 1988.

Trong suốt chín năm, một phần đáng kể nhân tài vật lực của chúng ta đã phải dồn cho biên giới phía Bắc, trong khi Mỹ cấm vận, viện trợ của Liên Xô cắt giảm so với trước và Trung Quốc thì từ bạn thành thù.

Có thể nói VN đã hao tốn nhiều sức lực vì cuộc chiến biên giới đó. Nếu căng thẳng tiếp tục kéo dài, VN càng ngày càng bất lợi.

Chính vì vậy, năm 1988, khi VN chủ động rút quân chủ lực lùi xa biên giới 40km, tình hình biên giới lắng dịu ngay, và đến năm 1991 thì VN và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ sau cuộc gặp giữa lãnh đạo hai nước ở Thành Đô, Trung Quốc.
Bức huyết thư xin đi chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc của cựu sinh viên khoa lịch sử Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội năm 1979 đang được lưu giữ tại phòng truyền thống Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội - Ảnh: Phạm Cường







Theo V.H - T.T - Tuổi trẻ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét