Hạnh Phúc Vợ Chồng Qua Cung Phối (Phu Thê)
Trong suốt thời gian học hỏi về Tử-Vi, mỗi lần ai nhờ tôi coi về hôn nhân cũng hỏi tôi vấn đề so đôi tuổi có đúng không ? Tôi xin trả lời ngay là chỉ tương đối đúng, nghĩa là phải tùy thuộc vào lá số của cá nhân, vì vậy không nên câu nệ hoặc quan trọng hóa việc so đôi tuổi quá.
Nếu lá số của mình có cung Phối (tức cung Phu Quân, hoặc Thê Thiếp tùy theo nam hay nữ) tốt thì gần như chắc chắn mình sẽ gặp được người vợ hoặc chồng tốt, dù tuổi hai bên có Ngũ Hành xung nhau chăng nữa, nhưng thực ra hai vợ chồng hay gây gỗ nhau về những điều lặt vặt thì không hại gì cho hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên theo kinh nghiệm riêng, thì thấy thường thường những người có cung Phối "ngon lành" thì ngẫu nhiên không lựa mà vẫn gặp được ý trung nhân có mạng tương sinh.
Nhưng có điều lạ là tôi đã được biết nhiều cặp có cung Phối tốt, thế mà cặp nào có Ngũ Hành hơi xung nhau (tôi nói hơi xung, thí dụ như Sơn Đầu Hỏa, Hỏa là lửa trên núi và Giản Hạ Thủy là nước dưới khe, tuy là Hỏa-Thủy tương khắc nhau, nhưng khắc gọi là vậy thôi, vì nước trong khe làm sao dập tắt được lửa trên núi) thì lại có hạnh phúc đậm đà hơn cặp có Ngũ Hành tương sinh.
Phải chăng mặt sông có sóng gợn lăn tăn vẫn "thơ mộng" hơn mặt biển phẳng lặng chăng ? Kể ra cũng không có gì khác thường vì trên thực tế nếu cặp vợ chồng nào không bao giờ gây gỗ với nhau, hoặc không bao giờ có gì ngang trái xảy ra hạnh phúc lứa đôi thì đương nhiên là tốt thật, nhưng chưa chắc họ cảm thấy được những gì độc đáo hơn cặp vợ chồng thỉnh thoảng hờn giận nhau, rồi lại làm lành với nhau.
Tuy vậy đó là nói về phương diện tình cảm và tâm lý, chứ thật ra cặp vợ chồng có Ngũ Hành của mạng tương sinh vẫn thành công hơn về phương diện sự nghiệp.
Trong trường hợp cung Phối xấu thì thật kẹt, vì khó lòng lựa được người tương sinh với mình về Ngũ Hành, mà dù có lựa được cũng kẻ Bắc người Nam, chia ly xa cách. Tôi có một người cô ruột khi sắp lấy chồng cũng đã so đôi tuổi kỹ lưỡng lắm, mà chỉ trong vòng năm năm hai vợ chồng kẻ Âm, người Dương, cũng chỉ vì cung Phối quá xấu (!?)
II- Tìm hiểu về cung " Phối "
Trong mục này tôi chỉ nêu lên những điểm mà các sách Tử-Vi ít khi đề cập tới, hoặc có nói tới, nhưng theo một cách khác. Vì vậy các bạn đừng coi những điều dưới đây như những công thức để giải đoán về cung Phối mà chỉ nên coi là những điều bổ túc mà thôi.
1- Truyền cung là gì ?Trong bao nhiêu năm coi số Tử-Vi, tôi chỉ gặp có hai hay ba trường hợp "truyền cung". Truyền cung khác với truyền tinh , vì chỉ để ý tới cung chư không quan tâm đến các sao.
Thí dụ người chồng tuổi Hợi và người vợ tuổi Sửu (không cần xét tới hàng Can của tuổi), nếu cung Mệnh của chồng đóng tại cung Sửu (tuổi vợ) và cung Thê của người đó lại ở Hợi (tuổi chồng) còn lá số người vợ cung Mệnh đóng tại Hợi hoặc cung Phu ở Sửu (khó có trường hợp hai cung đối với lá số thứ nhì, nếu lá số số thứ nhất trùng hai cung rồi) thì gọi là truyền cung.
Cặp vợ chồng nào truyền cung như vậy thì coi như đã được một yếu tố tương hợp đặc biệt rồi, chưa cần xét đến các sao và Ngũ Hành. Nói là đặc biệt không phải hoàn toàn chỉ về phú quý mà thực ra chỉ về hạnh phúc đầm ầm nhiều hơn, còn nếu thêm được các sao quyền quý của hai cung Phối thì được cả hai khía cạnh. Dù sao chăng nữa, hạnh phúc vợ chồng tùy thuộc rất nhiều vào sự khắng khít, thương yêu nhau hơn là vào tiền bạc, công danh, miễn là cuôc sống không đến nỗi nghèo khổ quá thôi. Ngoại trừ trường hợp có những cặp vợ chồng chỉ nghĩ đến tiền thì đó là chuyện ngoại lệ, không cần bàn tới.
2- Truyền tinh
Vần đề truyền tinh giữa hai lá số vợ chồng tương tự như sự truyền tinh giữa cha mẹ và con cái. Nay tôi chỉ xin nhắc lại cần chú ý đến các sao tốt truyền tinh là hay (Thí dụ như Tử-Phủ-Vũ-Tướng, Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương, Quang-Quý,Long-Phượng, Khoa-Quyền-Lộc, Thai-Tọa,Tả-Hữu ... ) chứ nếu toàn các hung tinh, sát tinh, bại tinh truyền tinh thì thật là đại bất hạnh, vì hai vợ chồng cứ hại nhau hoài, hoặc chia ly mau lẹ !
Cũng có người nói rằng truyền tình như vậy thì hai vợ chồng vẫn thương mến nhau vì "đồng lai tương tập" nhưng đều là lưu manh một đám và hạnh phúc không bền. Kể ra chỉ đúng về khía cạnh không bền, chứ còn vấn đề "lưu manh" thì không vững, vì nếu cả hai người đều có cung Mệnh đàng hoàng thì sao, đâu có phải cứ cung Phối xấu thì Mệnh xấu đâu. Điểm này để các bạn nghiên cứu Tử-Vi chiêm nghiệm.
Trong trường hợp lá số của chồng có những sao xấu ở cung Mệnh của vợ truyền qua cung Thê và cung Phu của vợ lại có các sao tốt của chồng thì phải hiểu là người vợ rất may mắn được ông chồng đàng hoàng, tài giỏi, quyền quý trong khi mình chỉ là "của nợ" đối với chồng.
Dù cho cung Mệnh của chồng có thêm những sao "lưu manh" chăng nữa, thì người đó cũng chỉ bất lương với những người khác, còn đối với vợ lại rất đàng hoàng. Còn người vợ, dù cho Mệnh Thân trong trường hợp này có tốt cũng chỉ cư xử tử tế với bà con, anh em, họ hàng, chứ riêng đối với chồng thì lại thủ đoạn hoặc chỉ ăn hại mà thôi. Tôi đã có dịp gặp nhiều cặp vợ chồng có số như vậy và chiêm nghiệm thấy rất đúng. Vậy các bạn nào lựa vợ hoặc chồng hãy thử dựa theo tiêu chuẩn này, xem có ứng nghiệm hay không, vẫn biết rằng đã có số thì cũng chẳng lựa nổi.
Ngoài ra, có nhiều người thắc mắc không biết một đôi trai gái yêu nhau, tính kết hôn với nhau mà có số truyền tinh (sao tốt) có lấy nhau không ? Về điểm này tôi đã nghiệm thấy chỉ đúng 70 %, vỉ đâu có phải chỉ có người con gái (hoặc con trai) liên hệ đó mới có số truyền tinh. Đúng ra còn có rất nhiều người khác dù không sinh một ngày, giờ, năm, tháng mà vẫn truyền tinh chặt chẽ hơn nữa. Tuy vậy, khi mình đã yêu đúng người truyền tinh rồi thì họa hoằn lắm mới gặp được một người khác truyền tinh hơn, cho nên những đôi lứa nào đang cố gắng đi tới hôn nhân mà truyền tinh với nhau cũng không nên lo ngại lắm.
Lại cũng có người hỏi nếu không truyền tinh với nhau có phải là vợ chồng không, hoặc có cặp vợ chồng nào ăn ở với nhau rồi mà không truyền tinh hay không ? Tôi nghiệm thấy rằng khi chưa kết hôn với nhau mà không có số truyền tinh, thì gần như chắc chắn không đi tới hôn nhân được. Nhưng trái lại, tôi cũng đã gặp khá nhiều cặp vợ chồng không truyền tinh với nhau, nhưng trong trường hợp này, vợ chồng đối với nhau như người dưng nước lã, mỗi người một đường hướng, ít khi gần gũi nhau và nhất là lúc chết khó lòng gặp mặt nhau, hoặc giả cũng có khi thương yêu nhau nhưng rồi vì hoàn cảnh phải xa nhau, hay li dị nhau.
Trước khi chấm dứt mục "Truyền tinh" này tôi còn cần nêu ra một điểm nữa. Thường thường, các vị coi Tử-vi chê cung Phối có Thái Tuế-Đà La-Kình Dương (còn có vị chê cả Thai Phụ-Phong Cáo ở cung Phối nữa), cho rằng cung Phối như thế nhất là có Thái Tuế, vợ chồng dễ xa nhau, li dị nhau hoặc người bạn đời của mình chết sớm.
Điều này đúng, nhưng nếu may ra cung Phối của vợ hoặc chồng mình có sao giống như thế (cũng là một hình thức truyền tinh) thì có thể tránh được hình khắc, vì đã có sự quân bình, coi như "cán cân cân lực lượng" thăng bằng.
Nhưng ít ra phải có nhiều trắc trở éo le trước khi đi tới hôn nhân mới tốt về sau (thí dụ như cưới chạy tang, bệnh hoạn, tai nạn, bị ngăn trở, quậy phá ... ) những tay "anh chị" gặp nhau thường hay thử tài nhau trước khi liên kết với nhau là thế. Chính cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam đã cho tôi biết điểm này khi cụ còn sinh tiền.
3- Tương quan giữa Ngũ Hành các sao và vị trí của cung Phối với Ngũ Hành của bản Mệnh
Thường thường các bạn coi Tử-Vi ít khi chú trọng tới điểm này và chỉ quan tâm đến các vấn đề Miếu, Vượng, Đắc Địa hoặc Hãm địa của các sao thuộc cung Phối cùng ý nghĩa các sao đó. Như thế thiếu hẳn một yếu tố quan trọng về sự tương hợp, một yếu tố cần thiết cho hạnh phúc vợ chồng. Phàm các chính tinh (không nên xét đến các trung tinh và bàng tinh để cho khỏi rắc rối quá) ở cung Phối, nếu :
Sinh bản Mệnh thì thường được vợ hoặc chồng chiều chuộng thương yêu như thế tức là mình giữ vai trò bị động.
Được bản Mệnh sinh thì mình giữ vai trò chủ động, lo toan mọi bề cho người bạn đời của mình.
Tương hòa với bản Mệnh thì hai bên lo cho nhau một cách bình thường, theo bổn phận hơn là vì thương yêu nồng nàn.
Theo quan điểm riêng của tôi, nếu bản Mệnh là Nam thì sinh xuất. Ví dụ : Mạng Mộc sinh sao ở cung Phối thuộc (Hỏa) hay hơn hơn sinh nhập (trường hợp sao cung Phối sinh Mệnh) vì đàn ông mà để đàn bà lo toan cho mình đủ thứ thì sao đáng gọi là nam nhi. Còn bản Mệnh là Nữ thì sinh nhập hay hơn, vì đàn bà nhờ chồng nhiều mới sung sướng, trừ phi người đó muốn điều khiển chồng lại là chuyện khác.
Trong trường hợp gặp sao cung Phối khắc với bản Mệnh thì thật là đáng tiếc, dù sao tốt.
Thí dụ cung Phối có có Tử-Phủ đồng cung tại Dần hoặc Thân là các sao tốt hết chỗ chê, người hôn phối vừa đứng đắn, đạo đức, vừa quyền quý, cao sang, mà lại khắc với bản Mệnh thì người bạn đời của mình chẳng khác nào chiếc lọ cổ thật đẹp trưng bày mà ngắm thôi.
Thành ra người ngoài nhìn vào ai cũng trầm trồ khen ngợi trong khi chính mình chẳng ưa hoặc người hôn phối không ưa mình. Đấy là chưa kể đến trường hợp bị thêm các sao xung phá khác làm giảm hạnh phúc đi nhiều nữa.
Còn thí dụ như có Vũ-Sát khắc bản Mệnh thì lại khổ hơn nữa, vì người bạn đời của mình vừa cứng cỏi, khô khan, vừa không hợp với mình, như thế còn gì chán bằng.
Nếu xui xẻo có Tham Lang độc thủ khắc bản Mệnh của mình, lại thêm Đào-Riêu-Mộc thì chắc chắn bị xấu nhục với xã hội về người hôn phối đàng điếm.
Còn về tương quan giữa vị trí cung Phối với bản Mệnh, thì chỉ có khác là vị trí thường tượng trưng cho phía gia đình bên vợ, trong khi các chính tinh thường tiêu biểu cho chính người vợ . Về luận đoán cũng tương tự như trên, tôi thấy viết thêm ra nữa chỉ càng làm cho dài dòng vô ích.
Tôi cần lưu ý các bạn là không bao giờ nên áp dụng một cách máy móc những điểm trên, mà còn cần phải dung hòa với các yếu tố khác trước khi đi đến chỗ quyết đoán.
4- Tương quan giữa cung Phối và hai cung Mệnh và Phúc Đức
Tôi có được xem một lá số của một bà có cung Phu rất tốt (nhiều sao quyền quý và Ngũ hành tương sinh với bản Mệnh), nhưng Mệnh của bà ấy lại có Cô-Quả-Đào-Kình-Thiên Không và "Thân" có Vũ-Khúc-Lộc Tồn-Kiếp Sát, lại thêm Không-Kiếp hãm địa chiếu về (nhất là Kiếp hãm địa tại Mệnh tối kị với đàn bà) trong khi cung Phúc cũng xấu, ngoài Mệnh còn có Tử-Tham bị Triệt án ngữ cho nên bà ấy không được hưởng cung Phu và hiện nay vẫn ở góa, sau khi đã có hai chồng quyền quý, một bị chết non, một ly dị.
Bà ta còn cho biết mới đây một ông lớn muốn cưới bà ấy, nhưng vì thấy Tử-vi của mình kẹt như vậy nên bà ta còn e dè ! Xem như thế cũng đủ biết cung Mệnh có ảnh hưởng lớn lao tới cung Phối biết chừng nào. Riêng tôi, tôi vẫn thắc mắc không hiểu tại sao người chồng đầu tiên của bà lại chết non, vì cung Phối không có sao chứng tỏ sự chết non đó. Không có lẽ Mệnh, Thân của bà đó sát chồng mạnh đến thế hay sao ?
5- Ý nghĩa các sao thuộc cung Phối
Hầu hết các sách Tử-vi Tữ-Vi đã xuất bản, đều có ghi ý nghĩa các sao nên tôi thấy không cần phải nêu ra đây. Tôi chỉ xin lưu ý các bạn là ngoài sự tương quan về Ngũ Hành các sao với bản Mệnh như đã nói trên, các bạn cũng cần phải để ý xem nhóm sao thuộc cung Phối có ăn khớp với nhóm sao thuộc cung Mệnh hay không.
Ví dụ như Mệnh có Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương thì cung Phối nên có Cự-Nhật hoặc Vũ-Tướng, chứ tối kị có Sát-Phá-Liêm-Tham hoặc ngược lại cũng vậy. Về điểm này, các bạn có thể coi phần tiểu luận của cuốn Tử-vi Đẩu Số Tân Biên do Ông Vân Đằng Thái Thứ Lang biên soạn để áp dụng vào trường hợp này theo kiểu suy luận.
Ngoài ra, tôi cũng cần nói rằng các trung tinh thường phải lệ thuộc vào chính tinh (tọa thủ cũng như xung chiếu).
Tôi xin lấy một ví dụ : Nhiều người sợ sao Đào Hoa tại cung Phối vì sợ người bạn đời của mình lả lướt quá.
Nhưng nếu gặp Tử-Phủ hoặc Liêm-Tướng chẳng hạn thì lại rất hay, vừa đạo đức, xinh đẹp, vừa tình cảm.
Tuy vậy, cũng rất cần Chính tinh tương sinh với bản Mệnh (nhất là sinh xuất) thì tình vợ chồng mới mặn nồng, chứ Chính tinh khắc bản Mệnh thì tâm hồn người bạn đời của mình cũng dễ hướng về người khác, dù chỉ trong tinh thần hoặc cao thượng (vì Tử-Phủ, Liêm-Tướng là các sao đoan trang, đứng đắn).
Nếu chẳng may sao Đào Hoa phùng Tham Lang chẳng hạn, thì dù có sinh bản Mệnh cũng phiền lắm, vì làm sao mình thỏa mãn nổi người bạn đời quá ham mê nhục dục. Còn gặp trường hợp Chính tinh này (ý nói sao Tham Lang trong trường hợp này) khắc với bản Mệnh thì chắc chắn mình mau ... mọc sừng.
Qua những điểm nêu trên, các bạn hẳn tìm thấy rằng việc tìm hiểu cung Phối thật phức tạp, rắc rối, cho nên khi quyết đoán cần phải kết hợp mọi yếu tố để kẻo mắc sai lầm rất nhiều.
(Trích từ Báo KHHB của PHONG NGUYÊN)
fun forever
Jan 10 2008, 10:44 AM
Các sự kiện trong cung Phu-Thê mà nhà thuật số có thể cân nhắc thuộc về các phương diện hạnh phúc đời người :
1.Vợ chồng lấy nhau có dễ dàng hay bị cản trở ?.
2.Có sự hình khắc, tử biệt sinh ly không?
3.Có xung khắc nhau không ( những độ xung khắc khác nhau) hay được hòa hợp đến già ?
4.Có mấy đời vợ chồng ? Đàn ông có mấy vợ không ?
5.Vợ hay chồng có tốt không ? (Vợ đẹp, ngoan, đứng đắn hay dâm dật, xấu xa, chồng khá giả hay chồng bần tiện ... )
Muốn biết đại cương cung Phu-Thê tốt xấu, phải xem các sao trong cung đó, nhưng trước hết, cũng phải xem cung Mệnh, Thân và Phúc Đức.
Sở dĩ phải xem Mệnh, Thân và Phúc Đức, là bởi vì người có Mệnh, Thân và Phúc Đức tốt, tất cả được hưởng ảnh hưởng tốt và hạnh phúc và cái đó phải ảnh hưởng vào Phu-Thê (đó là chưa kể rằng cung Phu-Thê thuộc nhóm cung Mệnh Thân, và có các cung Phúc Đức, Quan Lộc, Thiên Di chiếu tới)
Nếu cung Phu Thê xấu mà được cung Mệnh, Thân và Phúc Đức tốt, thì cũng giải trừ được nhiều sự xấu (bớt sự xung khắc, bớt hình khắc chia ly).
Nếu Cung Phu Thê tốt, mà cung Mệnh, Thân và Phúc Đức lại xấu, thì những cái tốt của cung Phu-Thê cũng phải giảm đi.
Cũng có trường hợp Mệnh xấu, Phu-Thê xấu, lấy vợ lấy chồng gặp toàn cảnh ngộ tệ hại, thế nhưng sang đến Thân tốt , thì cũng Phu-Thê ấy, mà lại được hưởng tốt (Thân ăn về hậu vận, từ tuổi 30 trở ra; đương số lấy vợ lúc trẻ tuổi, gặp vợ lăng loàn, chịu cảnh xung khắc rồi phải ... ở góa; nhưng sang đến Thân được ảnh hưởng tốt; lại lấy được vợ tốt, hiền hòa, ăn nên làm ra, vợ chồng hòa hợp)
II-Ảnh hưởng Chính tinhQuý vị có thể coi các sách Tử-vi, đã soạn sẵn những cách và ý nghĩa khi gặp những Chính tinh miếu hay hãm, rồi lại có những cách trung tinh (nhớ xét đến Ngũ hành của bản Mệnh và Thân với các Chính tinh và trung tinh). Xin tóm tắt sau đây ý nghĩa các cách ở cung Phu-Thê :
•Tử-vi tại Ngọ: Hòa hợp đến già, khá giả
•Tư-Phủ đồng cung: Hòa hợp đến già, khá giả
•Tử-Tướng đồng cung: Cùng cứng cỏi, xích mích. Nhưng khá giả, ăn ở được với nhau.
•Từ-Sát đồng cung: Tiên trở hậu thành và lập gia đình trễ mới tốt.
•Tử-Phá đồng cung: Hình khắc hoặc kém thuận hòa.
•Tử-Tham đồng cung: Thành hôn trễ mới tốt, ghen tuông.
•Liêm Trinh đơn thủ tại Dần Thân: Mấy lần lập gia đình.
•Liêm-Phủ đồng cung: Trễ mới tốt, chung sống tốt, khá giả.
•Liêm-Tướng đồng cung: Bất hòa.
•Liêm-Sát đồng cung: Hình khắc muộn mới tốt.
•Liêm-Phá đồng cung: Bất hòa.
•Liêm-Tham đồng cung: Xung khắc.
•Thiên Đồng tại Mão: Trễ mới tốt.
•Thiên Đồng tại Dậu: Bất hòa.
•Thiên Đồng tại Tý dễ gần, dễ xa.
•Thiên Đồng tại Thìn Tuất: Xung khắc.
•Đồng Lương đồng cung: Đẹp đôi, khá giả, cưới sớm.
•Đồng, Nguyệt tại Tý đồng cung: Đẹp đôi, khá giả, cưới sớm.
•Đồng, Nguyệt tại Ngọ: trễ mới tốt.
•Đồng Cự : Xa nhau một thời rồi mới đoàn tụ.
•Vũ Khúc tại Thìn Tuất: Trễ mới tốt
•Vũ Phủ đồng cung: Có bất hòa, nhưng khá giả đến già.
•Vũ Tường đồng cung: Vợ đảm, chồng sang. Có xích mích, nhưng khá giả đến già
•Vũ Tham đồng cung : Trễ mới tốt.
•Vũ Phá đồng cung: Giỏi, trễ mới tốt
•Vũ Sát đồng cung: Hình khắc, dễ xa nhau.
•Thái Dương sáng: Hòa hợp, khá giả đến già.
•Thái Dương tối: Cưới xin trắc trở , trễ mới tốt.
•Nhật-Cự đồng cung tại Dần: Bất hòa nhưng chung sống đến già.
•Nhật-Cự đồng cung tại Thân: Trễ mới tốt.
•Nhật-Nguyệt đồng cung: Khá giả, nhưng trễ mới tốt.
•Thiên Cơ ở Tỵ, Ngọ, Mùi:Thành hôn sớm, khá giả, ở được với nhau
•Thiên Cơ ở Hợi, Tý, Sửu: Trễ mới tốt.
•Cơ Lương đồng cung: Lấy dễ, khá giả hòa thuận đến già.
•Cơ Cự đồng cung: Người xứng đáng, trễ mới tốt.
•Cơ nguyệt đồng cung ở Thân: Người xứng đáng, cưới sớm.
•Cơ nguyệt đồng cung ở Dần :Hay khó khăn, trễ mới tốt.
•Thiên Phủ ở Tị, Hợi: Khá giả, hòa thuận đến già.
•Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu : Khá giả và chung sống đến già tuy hay cãi nhau.
•Thái Âm sáng: Khá giả, cưới sớm, chung sống bạc đầu.
•Thái Âm tối: Bất hòa, hôn phối không tốt, trễ mới tốt.
•Tham Lang tại Thìn, Tuất, Tý, Ngọ: Tốt, nhưng hay ghen. Trễ mới tốt.
•Cự Môn tại Tý, Ngọ, Hợi: Khá giả, ở được với nhau, nhưng hay bất hòa.
•Cự Môn tại Thìn, Tuất, Tỵ: Xung khắc, hay bỏ nhau.
•Thiên Tướng: Trai nể vợ, gái lấn áp chồng, trễ mới tốt.
•Thiên Lương Tý Ngọ:Vợ đẹp, chồng sang, khá giả.
•Thất Sát: Trễ mới tốt, sớm thì hình khắc chia ly.
•Phá Quân: Trễ mới tốt, sớm thì hình khắc chia ly.
III- Ành hưởng của Trung Tinh và Hung Tinh
Các trung tinh tốt cho thêm ảnh hưởng tốt, về vợ hay chồng khá giả và về sự thuận hòa: Xương, Khúc, Khôi, Việt.
Sát Tinh (Không-Kiếp, Kình-Đà, Linh-Hỏa) : miếu vượng, thì chủ bất hòa, hoặc chia ly thời gian ngắn; hãm thì hình khắc, họa hại , người hôn phối xấu xa, bậy bạ ... Cũng phải xét thêm ở chỗ giao ảnh hưởng với các sao khác :
•Tả-Hữu: Tăng ảnh hưởng cho sao tốt hoặc cho sao xấu.
•Hóa Lộc: hôn phối giàu.
•Hóa Quyền: Vợ lấn quyền, chồng sang.
•Hóa Khoa: Hôn phối có học, có chức.
•Hóa Kị: Bất hòa.
•Lộc Tồn, Cô-Quả: Nên cưới trễ sẽ tránh chia ly.
•Thiên Mã: Nên duyên ở nơi xa.
•Phục Binh: Đi lại với nhau rồi mới cưới.
•Tướng Quân: Đi lại trước, cưới sau.
•Ân Quang, Thiên Quý:Vì ân tình mà lấy nhau.
•Song Hao: Cưới dễ hoang tòan.
•Cô, Quả: Bất hòa, hay xa cách.
•Đào, Hồng: Cưới xin dễ dàng, nhưng nếu Đào Hồng hãm : hình khắc chia ly.
•Thiên Diêu: Hoang dâm, bất chính.
•TUẦN-TRIỆT: Trễ mới tốt (để khỏi bị hinh khắc)
IV- Ảnh hưởng Chính Tinh so với Trung Tinh
Trong cung Phu-Thê, có cả chính tinh và trung tinh gặo nhau thì ảnh hưởng của Chính tinh mạnh hay ảnh hưởng Trung tinh mạnh ?
Xin thưa : Ảnh hưởng Chính tinh mạnh hơn ảnh hưởng Trung tinh.
Vậy nên chính tinh mà tốt, gặp Trung tinh xấu, thì cái tốt chỉ giảm đi chứ không bị xấu.
Nếu chính tinh có ảnh hưởng xấu gặp trung tinh tốt, thì cái xấu bớt đi chứ
cái tốt chưa có
Tuy nhiên có nhưng cách cố định, gặp phải là có một ảnh hưỡng nhất định, hoặc có những Trung tinh, hung sát tinh mạnh thì ảnh hưởng có khi lấn át cả Chính tinh.
V- VÀI DỮ KIỆN THÍ DỤ
- Phu-Thê có Cô-Quả, Đào-Hồng hãm, Tả Hữu, Không -Kiếp là báo hiệu sự hình khắc, chia ly.
- Lộc Tồn, Vũ Khúc, Cự Kỵ cũng thường báo hiệu sự chia ly.
- Một người có Tử-Phủ, Không Kiếp ở Thê, là cái tốt bị phá mất, mai mối nhiều lần không xong. Nhưng nếu sang Thân (ứng về hậu vận từ 30 tuổi trở ra), tốt thì lại dở. Người đó lập gia đình muộn,từ năm 35 tuổi trở đi, được tốt.
-Sự kiện được ghi ở các cách chính tinh nêu ở trên (trễ mới tốt) được nghiệm ra là rất đúng. Gặp những chính tinh đó lập gia đình trễ thì không sao, tức là tránh được hình khắc chia ly.
-Xem vợ bé, phải xét cung Nô.
Tuy nhiên, cũng có cách người góa vợ, lấy vợ sau, phải đoán ra. Như gặp Tả-Hữu, Hồng Đào hãm, Không Kiếp, Cô Quả là cách góa vợ, nhưng lấy vợ sau thì khác đi.
- Có Tuần Triệt thì lập gia đình gặp cản trở. Hai người chê nhau, hoặc gặp khó, nhưng chỉ khó lần đầu thôi. Không phải có Tuần Triệt là không có vợ chồng. Còn Tuần Triệt gặp Tướng thì hình khắc (Tướng ngộ Tuần hay Triệt là cách độc).
Một người Mệnh có Liêm Trinh đắc địa, Thiên Không, Hồng Loan tại Dần, Thân, Tị, Hợi , là người đứng đắn, lòng chỉ muốn tu, thì không nghĩ đến việc lập gia đình. Tuy nhiên đến năm 35 tuổi gặp Đào, Thai, Phục, Vượng, Tướng... lòng tự nhiên thấy mở rộng ra tình yêu hoặc gặp trường hợp đặc biệt (!?) , thế là thành vợ thành chồng. Có sao đứng đắn , phải gặp lúc có những sao thật bay bướm mới thành hôn.
VI- Hạn lấy vợ, lấy chồng
-Xưa lập gia đình, nay trễ. Như vậy, cũng những người đó, những lá số đó, hoàn cảnh đất nước (như chiến tranh, đời sống khó khăn, việc lập sự nghiệp đeo đẳng kéo dài ....) có thể làm lệch số mạng chăng ? Cũng không hẳn thế, là vỉ có số mạng, nhưng cũng có con người quyết định mới được.
-Vậy chăng. số vẫn có, bởi vì những cách báo hỉ vẫn xuất hiện, không năm nay thì qua năm khác.Năm nay không báo hỉ, không hôn nhân thì thi đậu, hay đi làm, không thi đậu, đi làm thì hôn nhân.
Sau đây là nhưng vận hôn nhân :
•Đại Tiểu hạn trùng phùng tại cung Phu hay Thê (Đại Hạn ở Thê cung. Tiểu hạn cũng vào cung đó.
•Hạn có Nhật-Nguyệt chiếu.
•Hạn có Đào Hồng Hỉ .
•Hạn có Sát, Phá , Liêm, Tham .....
Tức là những hạn có hỉ tinh. Phải xem cả Đại hạn và Tiểu hạn. Đại hạn có cách báo hỉ. Tiểu hạn cũng có cách báo hỉ, thì đó là hạn thành hôn.
VII- Trường hợp Thân Cư Thê và chồng sợ vợ
Người đời thường bảo rằng Thân đóng ở Thê là người sợ vợ , hay nói cho nhẹ đi là người nể vợ, điều đó rất sai.
- Thân cư Thê : Không phải là sợ Vợ.
- Thân cư Thê cũng không đương nhiên là nhờ vợ, cũng không phải Thân cư Phu là đương nhiên nhờ chồng. Thật thế, Cung Thê hay Phu mà xấu thì nhờ được nỗi gì đây? Họa chăng là cung đó tốt, nghĩa là chồng hay vợ được giàu sang, mình mới nhờ.
-Vậy Thân cư Thê có nghĩa là gì ? Có nghĩa là cuộc đời của đương số chịu ảnh hưởng liền vào với vợ. Thân cư Phu cũng vậy. Chịu ảnh hưởng thì rời ra không được. Một Ông Thân cư Thê mà chúng tôi biết được một bà xã rất tháo vác, một tay quán xuyến việc nhà, ông không phải lo gì hết. Một ông khác Thân cư Thê, giao hết con cái cho vợ để ông đi làm chính trị, đôi khi ông cũng léng phéng, nhưng các cô mèo chỉ đi thoáng qua và ông vẫn coi vợ trọng hơn hết. Cũng có thể là ảnh hưởng bà xã mạnh ông chồng nể vợ là ở chỗ đó.
Thế tại sao chồng lại sợ vợ ? Gặp cách nào thì chồng sợ vợ ? Đó là khi cung Thê có quyền tinh. Vợ mà có quyền thì ông chồng phải sợ. Các cách quyền tinh ở cung Thê là những cách đứng đắn và quyền hành :
•Thiên Tướng, Quốc Ấn (mạnh)
•Tướng Quấn, Quốc Ấn (mạnh vừa)
•Hóa Quyền
•Khôi, Việt.
•Tử-vi, Tả, Hữu.
•Thiên Phủ, Tả Hữu ...
DÀN ÔNG SỢ VỢ gặp những cách nào trong tử vi
Trong cuộc sống hàng ngày có thể nói vấn đề “sợ vợ” thường được đề cập tới, bất luận đối với giới nào. Vì vậy, trong lĩnh vực tử-vi, tôi cũng muốn nêu vấn đề này ra và mong sẽ ”mua vui” được cho quý bạn trong dịp chọn ý trung nhân, hay người đã có gia đình rồi, đồng thời tôi cũng xin cáo lỗi trước với bạn nào tình cờ nằm trong trường hợp điển hình mà tôi nêu ra dưới đây, vì sự trùng hợp rất dễ xảy ra trên phương diện lý thuyết tử-vi.
Tôi còn nhớ hồi mới học Tử-Vi, mỗi khi ông này , ông nọ hỏi tôi xem lá số có biết nói thế nào là người chồng sợ vợ hay không ?, thì tôi chỉ cần vài giây đồng hồ là khẳng định liền, một cách rất ư là tự tin, vì tôi cho rằng khía cạnh đó dễ ợt, cứ việc xem CUNG THÊ có Hóa Quyền hoặc Tướng Ấn hay không hoặc “THÂN” có cư THÊ và có Thái Âm tọa thủ hay không .v.v.v. Thật là đơn giản và rõ rệt như hai với hai là bốn. Và khổ một nỗi là rất nhiều lần trúng, nên tôi càng hãnh diện về sự hiểu biết tử-vi của mình, nhưng đôi ba lần bị sai trật hẳn mặc dầu giờ sinh trúng thì đâm ra ấm ức chẳng biết giải thích làm sao. Về sau tôi có gặp được vài vị cao thâm tử-vi chỉ dẫn khá kỹ càng về khía cạnh đoán “sợ vợ”, khiến cho tôi như bừng tình giấc mơ và cảm thấy hổ thẹn về khả năng tử-vi của mình. Bây giờ tôi xin cố gắng tổng hợp lại những điều đã học được cùng những kinh nghiệm riêng của tôi, để giúp quý bạn có một ý niệm chính xác hơn về vấn đề nêu trên, và tôi tạm chia bài này làm hai phần:
1- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ TƯƠNG ĐỒNG
2- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ CHÊNH LỆCH
__________________________________________________ _______
1-CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ TƯƠNG ĐỒNG
Trước hết tôi cần phải nói rằng, bao giờ ta cũng phải so sánh thật kỹ lưỡng và tỷ mỷ hai cung Mệnh và Thê, chứ không thể xét đơn thuần một cung Thê để xem có sự chênh lệch hay tương đồng. Trong mục này tôi bàn riêng về hai cung tương đồng, phần hai dành cho trường hợp hai cung chênh lệch.
Chắc quý bạn thắc mắc không biết làm sao phân biệt được tương đồng hay không vì các yếu tố tử-vi rất uyển chuyển chứ đâu có rõ rệt và cố định. Thực ra điểm này rất tương đối, nghĩa là quý bạn cứ tạm cho các sao cùng một nhóm đều tương đương với nhau hoặc nhóm này tương đương với nhóm khác. Tỷ dụ như Nhóm Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cùng có một “năng lực” như nhau hoặc nhóm Cự Nhật có thể sánh với Phủ Tướng .v.v.. Trường hợp cung Mệnh và cung Thê cùng Vô chính diệu thì các trung tinh và bàng tinh sẽ đóng vai trò chủ yếu mặc dầu chính tinh của cung xung chiếu vẫn gây ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp. Tỷ dụ như một cung có Khôi Việt, còn cung kia có Hóa Khoa, Thai Tọa thì tạm coi là tương đồng.
Khi nhận định được yếu tố tương đồng rồi ắt là ta có khái niệm về “cán cân lực lượng” của đôi bên nhưng đừng vội cho như thế là hai vợ chồng chẳng ai bắt nạt được ai vì còn cần xét thêm như sau :
– Nếu “hành” bản mạng (của chồng) tương hòa với chính tinh tại cung Thê thì không có sự lấn át với nhau, nhưng nếu khắc chính tinh hoặc được “hành” của chính tinh sinh thì người chồng trội hơn vợ. Còn trường hợp sinh chính tinh thì chồng phải “o bế” vợ khiến cho vợ làm tàng, nhưng không thua thiệt bằng trường hợp chính tinh khắc bản mạng.
– Sau khi xét đến “hành” sinh khắc phải để ý xem cung nào (Mệnh hoặc Thê) có nhiều sao phú và quyền quý hơn, nhất là khi các cung này vô chính diệu. Tỷ dụ như Mệnh có Tử-Sát hội Hóa Khoa trong khi cung Thê có Phủ Tướng (tức là tương đương với Tử-Sát) mà lại thêm Song Lộc, Long Phượng, Thai, Tọa thì người vợ cao sang, giàu có hơn chồng, hoặc xuất thân từ một gia đình quyền qúy hơn gia đình nhà chồng, như thế là có yếu tố lấn áp chồng. Đấy là tôi chưa kể đến sao Hóa Quyền là sao biểu lộ rõ rệt sự đàn áp (thuộc phần 2 bàn về sự chênh lệch mạnh mẽ mà tôi sẽ nói sau).
– Sau nữa phải lưu ý đến các sao tháo vát, thông minh, lanh lẹ dồn vào cung nào. Tỷ dụ như Khôi Việt, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hồng, Hỷ đều hội chiếu vào cung Thê thì cung Mệnh phải chịu lép, dù cho chính tinh của hai cung tương đồng.
– Sau hết ta còn phải phối hợp với Đại hạn, sở dĩ không xét đến tiểu hạn là vì một năm chưa đủ để thay đổi phong độ của một người, chẳng lẽ năm trước ta đang sợ vợ mà năm sau lại dám bắt nạt vợ hay sao ? Còn Đại hạn 10 năm là một giai đoạn có thể làm đảo lộn từ thể chất tinh thần một người. Do đó ta mới cần kết hợp với Đại hạn thật tốt và thật phù hợp với Mệnh tức là đời người đó “lên hương” mạnh khiến cho vợ phải kiêng nể, kính mến, nhưng nếu Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với mệnh lại “ăn khớp” với cung Thê thì đó là môi trường thuận lợi cho vợ lên mặt.
Ví dụ : Mệnh có Cự Nhật và cung Thê có Đồng Âm mà gặp Đại hạn có Cơ Lương (Thìn-Tuất) hội Quyền Lộc thì chỉ lợi cho Thê vì Cơ Lương ưa nhóm Đồng Âm hơn Cự Nhật và kéo theo cả Quyền Lộc. Do đó Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với Mệnh, thành ra vợ có cơ hội trội hơn chồng.
Qua những điểm phân tích trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy rằng có nhiều người chẳng thấy gì là sợ vợ qua lá số của họ mà trên thực tế họ đúng là hạng “râu quặp”, đó chẳng qua là quý bạn không cân nhắc kỹ lưỡng mà thôi. Và ngay cả khi quý bạn kết hợp tỷ mỉ nhưng máy móc quá; cũng vấn có thể sai lầm. Ví dụ như khi thấy cung Thê có chính tinh tương đồng với cung Mệnh mà lại hội nhiều sao quyền quý, nếu bạn kết luận ngay là chồng sợ vợ cũng có trường hợp chẳng đúng; vì nếu có thêm các sao hiền thục như Tràng Sinh, Đế Vượng, Quan Phúc thì chừng đó người vợ tuy cao sang, quyền quý nhưng nhất mực phục tòng chồng, chẳng khi nào dám khinh khi chồng. Cái khó khăn là ở chỗ thêm bớt, kết hợp cho tinh vi và uyển chuyển.
Tuy nhiên, nói chung khi trúng vào mục 1 này, qúy bạn có thể nắm được yếu tố tiên khởi là không có sự lấn áp mạnh mẽ giữa hai bên. Do đó, sau khi “gia giảm” theo các tiêu chí mà tôi đã nêu ra ở trên , qúy bạn có thể kết luận là khía cạnh “sợ vợ” ngược lại chỉ là “nể nang” mà thôi nếu có thêm yếu tố chứng minh liên hệ.
2-CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ CHÊNH LỆCH
Phần này mới đích thực là phần quan trọng vì vấn đề sợ vợ hay không ? sẽ nổi bật trong lá số, nhưng chính cũng vì thế mới dễ lầm và khó đoán. Tôi không muốn nói là luôn luôn phải đoán trái ngược lại, nhưng ta phải cận thận vì có trường hợp không ứng nghiệm chút nào. Về phần nguyên tắc cũng tương tự như phần 1, nhưng về phần thực hành khó hơn nhiều. Do đó tôi thấy cần đưa ra nhiều ví dụ điển hình để quý bạn giải đoán linh động và uyển chuyển hơn.
– Nếu bình thường Mệnh có Thiên Phủ gặp Tuần Triệt án ngữ mà cung Thê có Liêm Phá chẳng hạn thì phải nói rằng sự chênh lệch qúa rõ ràng, vì Thiên Phủ hiền lành bao nhiêu thì Liêm Phá dữ dằn bấy nhiêu. Do đó khi không có yếu tố gì khác chế hóa ta có thể kết luận là chồng sợ vợ tuyệt đối, chẳng cần có Hóa Quyền hay Tướng Ấn cư Thê. Nhưng nếu trong trường hợp này, Mệnh không bị Tuần Triệt án ngữ và lại có thêm Hóa Khoa, Xương Khúc, Tả, Hữu, Thai, Tọa, Song Lộc, Đào Hồng thì đừng vội kết tội người chồng sợ vợ, vì khi ấy người chồng hội đủ mọi “phương tiện” để bắt vợ vào khuôn phép một cách rất tinh vi, khoa học và tế nhị. Người vợ khi đó trái lại chỉ hùng hục làm việc tay chân cả ngày để phục vụ chồng vì Liêm-Phá đã chuyển hướng từ miệng la hét qua làm lụng bằng chân tay. Trường hợp này nếu cung Thê có thêm Tướng Ấn cũng chẳng sao, có khi còn tăng thêm hiệu lực quán xuyến nội trợ, để cho chồng được hưởng thụ mà thôi. Vì dù sao Thiên phủ cũng chủ về bề thế, thanh nhàn và hưởng thụ.
– Nếu Mệnh vô chính diệu (thường bị coi là yếu mềm nhu nhươc) và cung Thê có Tử-Sát chẳng hạn, lại hội thêm Tướng-Ấn, Hóa Khoa, Long Phượng, Hổ, Cái, Quang, Qúy, Lộc, Mã ai thấy mà chẳng đoán là vợ nắm quyền hoàn toàn, thế mà vẫn có trường hợp không ứng nghiệm; là vì khi cung Mệnh có Tang Hổ, Tả Hữu, Thai Tọa, Thanh Long, Mộc Dục chẳng hạn, thì cung Thê khi đó gần như bị vô hiệu hóa về khía cạnh bắt nạt chồng. Tại sao vậy ?. Vì các sao Tang Hổ tuy chỉ là sao ưu tư phiền muộn theo nghĩa bình thường nhưng thực ra cũng chủ về uy lực tiềm tàng hoặc gián tiếp, chủ về óc cách mạng (canh tân, đổi mới …), quật cường, như thế đâu có chịu nhục nhã, kiềm chế. Thêm vào đó có bộ Thai Tọa còn chủ về tư cách, bề thế, chững chạc đâu có để cho tự ái bị va chạm mạnh mẽ. Ngoài ra, Thai Tọa còn chủ về thích an nhàn nên thường cho vợ quán xuyến mọi việc (ứng vào Tướng-Ấn) để mình lo việc khác có tính cách “đàn ông” hơn. Còn Thanh-Long hội Tả Hữu chủ về ăn nói khéo léo, lý luận vững vàng tháo vát xoay xở thì làm gì mà không thuyết phục nổi vợ khi vợ muốn lấn áp, nhất là khi có sao Mộc Dục hội với sao Thanh Long là cách “thừa vạn phái dĩ thanh quang” (nghĩa là có tiếng thơm) chứng tỏ được người đời thán phục, hàng xóm làng giềng khen ngợi, như thế không có lẽ lại “râu quặp” để mang tai mang tiếng nhục nhã ?. Do đó bao nhiêu cái trội ở cung Thê chỉ là để phục vụ đắc lực cho chồng hưởng thụ thanh nhàn; nếu đôi khi những sao “hách” muốn hoạt động thì chừng đó người vợ chỉ lộ ra với người khác mà thôi.
– Thường thường ai cũng ngán cung Thê có Hóa Quyền, Tướng Ấn, Kình hoặc Đà vì như thế dễ bị vợ sai khiến, áp đảo dễ dàng, nhưng yếu tố này này cũng chưa hẳn tuyệt đối nếu cung Mệnh có những yếu tố chi phối nổi các sao đó, tỷ dụ như có Liêm Sát hội Khôi Việt, Tả Hữu, Thanh Long, Song Lộc thì những sao trên sẽ phục tùng hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp này còn phải dựa thêm vào Đại hạn tốt cho cung Mệnh (như đã bàn ở phần 1) thì mới chắc ăn vì cung Thê có “lực lượng” quá hùng hậu không dễ gì áp đảo được mạnh mẽ.
– Trong một vài sách Tử-Vi có nêu ra trường hợp “Thân” cư Thê có Thái Âm tọa thủ là sợ vợ. Nếu cứ áp dụng như thế rất dễ bị sai lầm vì tôi có xem nhiều lá số có trường hợp đó mà chẳng hề sợ vợ chút nào, trái lại còn được vợ chiều chuộng hết mình. Sở dĩ “công thức” trên không ứng nghiệm vì có những yếu tố khác chế hóa mạnh mẽ : Bình thường “Thân” cư Thê tức là phải nương nhờ vợ, nhất là khi có Thái Âm tọa thủ (vì sao này chủ về vợ mà đóng đúng tại cung Thê thì không khác gì cá gặp nước, rồng gặp mây tha hồ thao túng, hoạt động), nhưng khi cung Thê có Quan, Phúc, Tràng Sinh, Đế Vượng, bộ Tứ Đức, Long Phượng, Quang Quý … thì người vợ khi đó nai lưng ra mà phục vụ chồng, yêu thương chồng, còn người chồng chỉ vui chơi suốt ngày, chẳng phải quan tâm đến chuyện sinh kế hằng ngày, nhất là khi cung Mệnh có những sao thành nhàn bề thế (như Thai Tọa, Hỷ Thần, Phong Cáo, Thai Phụ …) và cung Phúc Đức tốt có yếu tố thụ hưởng (như Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thanh Long … ). Rất có thể trước nhãn quan của thiên hạ người chồng trong trường hợp này bị coi là nhu nhược, hèn hạ vì ăn bám vợ nhưng thực sự thì không có vấn đề “sợ vợ”. Lẽ dĩ nhiên nếu cung Mệnh và Phúc đều xấu và cung Thê lại thêm Hóa Quyền, Kình, Đà chẳng hạn thì khi đó người chồng thực là bất hạnh vì hoàn toàn nô lệ vợ, có khi bị vợ coi như kẻ ăn người ở ….
– Những thí dụ trên đây cho thấy có yếu tố sợ vợ mà vẫn không ứng nghiệm vì đó là yếu tố “nổi” đã bị yếu tố “chìm” làm mất hiệu lực. Ngược lại cũng vậy, nhiều khi thấy cung Mệnh mạnh hơn cung Thê gấp bội mà vẫn chịu thua vợ. Tỷ dụ như Mệnh có Liêm-Tham (Tị hoặc Hợi) hội Hóa Quyền mà cung Thê có Thiên Phủ gặp Tuần thì đúng là chồng bắt nạt vợ tuyệt đối, nhưng khi cung Thê không bị Tuần án ngữ thì Thiên Phủ lấy lại được năng lực bình thường của một chính tinh “đầu đàn” đủ sức làm cho Liêm-Tham nể vì, nhất là khi có thêm Tả, Hữu, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hình, Hổ, Song Lộc thì người chồng khó lòng mặt được, nếu có tức khí la hét được vài tiếng thì cũng chùn bước trước cách cư xử và thái độ khéo léo, tế nhị nhưng đầy uy nghi của người vợ. Thực tế, nếu quý bạn xét kỹ lưỡng các sao phụ trên thì thấy nguyên Song Lộc (cách của Lã Hậu – Lã Hậu sinh năm Giáp Dần ngày 7 tháng 3 giờ Dần :Lá số minh họa Lã Hậu cũng đủ quyền hành áp đảo người chồng), huống chi lại có thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Qúy là các sao khôn khéo, bặt thiệp cộng thêm Hình Hổ là các sao tăng cường hiệu lực của lời nói cũng như hành động, trong khi đó Liêm-Tham của của chồng chủ về “hữu dõng vô mưu” đâu có đủ sâu sắc mà đương đầu lại nổi.
Về phần hai này, nói chung phải luôn chấp nhận rằng ít khi có trường hợp ứng nghiệm trái ngược. Do đó qúy bạn cần hiểu là những thí dụ tôi nêu ra trên đây đều là ngoại lệ, và tôi mong qúy bạn không có người nào gặp trường hợp cung Thê hoặc cung Phu qúa trội để khỏi phải mất công tìm kiếm những yếu tố khác chế hóa đi.
Tôi ước mong bài trên đây có thể giúp được quý bạn phái nam nhận ra được phần nào năng lực của mình đối với người bạn đời để liệu cách “đối phó” hoặc điều chỉnh cách sống làm sao cho gia đình được êm ấm thuận hòa. Còn đối với quý bạn phái nữ, tôi chắc quý bạn sẽ sáng suốt hơn khi nhận định về người chồng của mình và sẽ không tìm cách bắt nạt hoặc lấn quyền một cách bừa bãi và mù quáng để hạnh phúc lứa đôi khỏi bị xáo trộn.
So đôi tuổi vợ chồng trên lá số Tử vi Đông phương
Trên lá số Tử vi Đông phương, cung Thê trên lá số Nam chỉ về đường Hôn phối; cung Phu trên lá số Nữ chỉ về đường phu quân. Chúng ta có thể xem xét qua cung Phu Thê để biết được tình trạng của cả hai về đường Phối ngẫu. Tính chất về người Hôn phối có nhiều sự kiện khác nhau mà khoa Tử vi Đông phương cho thấy tương đối khá chính xác: trường hợp một người Nam hay Nữ trong đời có mấy lần thành hôn, trường hợp chồng sợ vợ, trường hợp khắc kỵ nhau, trường hợp hòa thuận.
Nguyên tắc cơ bản đầu tiên
Nguyên tắc đầu tiên nên ghi về cung Phối Ngẫu, là một sự khác biệt trong cách giải đoán tùy theo là cung Phu hay là cung Thê. Như lá số Nam có cung Thê thì giải đoán ở cung này là về phần người vợ. Còn lá số Nữ có cung Phu thì một số giải đoán ở cung này không ứng về phần người chồng, mà ứng về phần người vợ, tức là người có lá số.
Thí dụ: Một người Nam có Thiên Tướng ở cung Thê thì đó có nghĩa là bà vợ rất tháo vác, đảm đang, tinh thần cứng cỏi và ông chồng phải nể nang, kính trọng! Nhưng một bà có Thiên Tướng ở cung Phu, thì lại không có nghĩa là bà ấy sợ chồng, mà lại vẫn có nghĩa là ông chồng phải kiêng nể vợ. Nguyên do là vì theo cái đạo “xuất giá tòng phu” của Đông phương xưa là vậy.
Cũng có trường hợp là sự truyền tinh ở 2 lá số Tử vi của Nam Nữ vợ chồng. Như cung Thê của Nam số có Tử vi thì cung mạng của Nữ cũng có Tử vi.
Trường hợp vợ khắc chồng
Người vợ khắc chồng là người có mấy đời chồng hay ly dị chồng, hoặc bị chồng bỏ, hoặc chồng chết yểu góa bụa. Nhưng đừng tưởng mạng người Nữ khắc chính tinh ở cung Phu, là khắc chồng (vì mạng chồng lớn, vợ không thể khắc dễ dàng). Điều đó chỉ có nghĩa là Hôn phối bị trắc trở.
Cái chính là số chồng phải yểu thì mới bị góa chồng; còn số chồng vững thì không sao. Ngoài ra, xem cung Phu của người Nữ, việc quan trọng là phải nhìn cung Mạng xem có Không, Kiếp hay Phi liêm hay không. Người Nữ mà có Không, Kiếp ở mạng, nếu lại không có sao giải như Hóa khoa, Thiên quan, Lộc tồn là số người long đong về đường chồng con; có thể có mấy đời chồng. Còn như không có Không, Kiếp thì chẳng sao.
Tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp do “đức năng thắng số” khi người ta biết cải số hữu hiệu; có nghĩa là biết tu nhân tích đức và ăn ở tốt với chồng con vẫn giữ được hạnh phúc trọn đời. Cho
nên ca dao về lý số có câu:
Khi nào thì một người nam có lá số Tử vi sợ vợ? Kinh nghiệm giải đoán qua nhiều lá số giúp chúng tôi rút ra những quy tắc sau đây:
1. Mỗi cung số ở vào một bộ tam hợp; có một hành gọi là hành của tam hợp. Có 4 bộ tam hợp là:
Thí dụ: Một người Nam tuổi Nhâm Thìn số Tử vi có Mạng ở cung Hợi, Thê ở cung Dậu.
Ta có Kim khắc Mộc, tức là Tam hợp Thê khắc Tam hợp Mạng: người Nam tuổi Nhâm Thìn này là người sợ vợ. Thực tế nhìn bên ngoài chúng ta sẽ nhận thấy người Nam này rất hiền lành, tốt.
Ngược lại ở lá số Nữ, tam hợp Phu khắc tam hợp Mạng, lại không có nghĩa là vợ sợ chồng, mà vẫn có nghĩa là người Nữ đó cầm quyền trong gia đình, ông chồng phải kính nể vợ.
2. Ở lá số Nam có cách Thân cư Thê; có nghĩa là vận mạng mình bị ràng buộc vào người vợ hay nói cách khác là sự nghiệp của mình trong đời phần lớn do người vợ góp sức mới nên. Lẽ đương nhiên phải gặp được người vợ hợp tuổi và đảm đang thì mới được hưởng giàu sang mãn nguyện trọn đời.
Số Nữ Thân cư Phu nên được cung Phu tốt thật là sung sướng hạnh phúc một đời:
Trường hợp khắc kỵ, chồng mấy đời vợ
Hồi còn sống ở Saigon, VN, chúng tôi có may mắn được đến học Tử vi với cố Lý số gia Thiên Lương (xin đừng lầm với Pháp sư Thiên Lương, cư sĩ Thiên Lương hoặc Suma Thiên Lương... đang quảng cáo trên các tờ báo thương mại ở hải ngoại này). Một hôm có người cầm lá số Tử vi đến hỏi cụ Thiên Lương về cung Thê. Cụ liếc qua lá số trên tay rồi nói ngay:
- Ông bị đến mấy đời vợ rồi phải không?
Ông này nhận đúng và thưa:
- Tôi có cả một người vợ chết nhưng tại sao lại như vậy được? Cung thê của tôi có chính tinh
Thái Âm vừa ở chỗ Miếu vừa ở cung Dậu là cung Âm đắc cách. Như thế là quá tốt. Sách Tử vi nào cũng nói có Thái Âm tại Dậu ở cung Thê là rất tốt. Mà sao tôi lại 3 đời vợ rồi!
Cụ Thiên Lương thong thả trả lời rằng:
- Thái Âm ở Dậu tại cung Thê thì tốt thật. Nhưng mạng ông là mạng Thổ, Thái Âm là Thủy. Thổ khắc Thủy, cho nên ông khắc vợ phải chịu cảnh mấy đời vợ cũng đúng.
Ông kia lại đưa ra lá số của người anh và thưa tiếp:
- Thưa cụ, còn ông anh tôi, cung Thê có Tử vi, lại ngộ Triệt là hỏng. Sách Tử vi dạy rằng cung Thê ngộ Tuần, Triệt thì bị Hình khắc chia ly mà sao anh tôi chỉ có một vợ, sống hạnh phúc với nhau đã 40 năm nay?
Cụ Thiên Lương lại ôn tồn giảng tiếp:
- Tuy có Triệt, nhưng Tử vi thuộc Thổ. Thổ sinh cho mạng Kim nên vợ chồng toàn hảo. Chỉ chậm lấy vợ, là do ảnh hưởng của Triệt.
Do đó, chúng ta rút ra được nguyên tắc sau đây:
1. Cung Thê có Tuần, Triệt: lấy vợ trễ. Hoặc “viễn phối tha hương” tức lấy vợ ở xa nơi sinh, xa quê hương.
2. Hành mạng khắc hành chính tinh ở cung Thê, người đó khắc vợ. Nếu không có sao giải hóa thì phải có mấy đời vợ.
3. Mạng và chính tinh ở Thê đồng hành hay sinh cho nhau; hay chính tinh ở Thê khắc mạng: chung sống với nhau lâu dài. Không ở lá số Nữ, thân cư Phu là thuận chiều nhất; cuộc đời của mình ràng buộc vào chồng, được nhờ chồng và vợ có nể chồng vì được chồng cưng cũng hợp lý thôi.
4. Lá số Nam, cung Thê có Hóa quyền có nghĩa là người vợ có quyền trong gia đình. Và theo quan niệm Đông phương, người vợ là nội tướng của gia đình.
Nếu có 2 trong 4 yếu tố trên thì sự nể vợ càng rõ ràng hơn. Có khi vợ giúp chồng nhiều nên vợ cũng dễ lên mặt; có khi vì chồng quá bê bối nên phải sợ vợ; có khi vì chồng đàng hoàng không may gặp phải người vợ lăng loàn nên vì danh dự của mình mà chồng phải nể vì không dám làm to chuyện xấu mình; có khi vì chồng tánh quá lành trong khi vợ tánh quá dữ dằn, ăn hiếp chồng được mới yên.
Trường hợp vợ hay chồng hòa hợp
Ông bà ta trước kia khi lấy vợ gả chồng cho con cái thường đi coi để so đôi tuổi xem có hợp hay không? Hợp thì mới tiến tới Hôn nhân. Tuy cũng có nhiều trường hợp chẳng may gặp tuổi khắc kỵ nhưng hai bên vì nghĩa, vì tình đã kết thân với nhau thì việc cưới xin vẫn diễn ra một cách bình thường. Và ông bà ta tìm đến Thầy cao tay ấn để chọn ngày kén giờ, để yểm trấn cho cuộc lương duyên của đôi trai gái được ăn đời ở kiếp với nhau đến trọn đời.
Nhưng trong việc so đôi tuổi cũng rất phức tạp vì cổ thư để lại chính thư lẫn với man thư. Nếu không gặp được Thầy có chân truyền thực học làm sao giải quyết được sự việc đi đến một cuộc Hôn nhân tốt đẹp.
Nhân đây cũng xin tóm tắt các yếu tố quan trọng như sau:
1. Hành mạng của Nam và Nữ sinh cho nhau hoặc khắc nhau.
Sinh cho nhau thì tốt, còn nếu khắc nhau thì mạng chồng khắc mạng vợ tốt hơn vì thuận lý sinh khắc.
Tốt nhất: Mạng vợ sinh cho mạng chồng. Thí dụ vợ mạng Thổ sinh cho chồng mạng Kim. Vợ giúp đỡ chồng nên sự nghiệp.
Tốt nhì: Mạng chồng sinh cho mạng vợ. Thí dụ, mạng chồng Hỏa sinh cho mạng vợ Thổ. Chồng phục vụ vợ và cả hai được sống hạnh phục.
Tốt ba: Mạng chồng khắc mạng vợ. Thí dụ, chồng mạng Mộc khắc vợ mạng Thổ. Sự khắc này thuận lý thì vợ chồng vẫn thuận thảo, ăn nên làm ra. Tuy khắc mà không sao hết.
Xấu: Mạng vợ khắc mạng chồng.
2. Điều quan trọng vẫn là so sánh 2 lá số Tử vi, thấy có sự tương hợp trong toàn bộ kể cả các đại vận. Thí dụ:
- Số Nam sống lâu mà số Nữ lại góa chồng thì không hợp. Số Nam yểu mà số Nữ sớm góa bụa thì hợp.
- Số Nam và Nữ, số con qua cung tử tức gần giống nhau là hợp.
- Giàu hay nghèo gần như nhau là hợp.
- Đại vận 10 năm trên lá số thấy sự tương đồng là điều đáng tin cậy nhất.
Làm thế nào để cải được bệnh “khắc khẩu” giữa vợ chồng?
Chứng “khắc khẩu” tuy không có vi trùng độc hại, nhưng hậu quả của nó lại rất nguy hại khôn lường. Thông thường một đôi vợ chồng đã đi đến sự khắc khẩu tất sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường sau đó. Cũng do hậu quả tai hại của chứng “khắc khẩu” mà người xưa đổ cho số mệnh là tiêu cực không đúng.
Ngày nay, xét qua góc độ “bệnh lý học” thì chứng khắc khẩu là một bệnh chứng tâm lý, bệnh căn của nó phát xuất từ việc hai vợ chồng trái tính, trái nết bất phục lẫn nhau.
Theo nhà tâm lý học người Mỹ là Jean Mason, nếu chúng ta muốn ngừa chữa chứng khắc khẩu cần phải chú ý những điều sau đây:
1. Phải tìm hiểu kỹ tâm tính của nhau trước khi kết hôn.
2. Chỉ tiến đến kết hôn khi đã thật hiểu về nhau và thấy thật phù hợp về tính ý.
3. Để tránh vợ thất vọng và coi thường, người chồng phải có một nghề nghiệp ổn định, một phẩm cách tốt đẹp, một tấm lòng bao dung.
4. Để tranh bị chồng coi rẻ, người vợ phải không vị kỷ, tháo vát việc gia đình, có phẩm chất tốt, có uy tín với mọi người trong gia đình chồng và nhất là phải có một nghề trong tay để tự lập.
5. Cả hai vợ chồng phải sống thật bình đẳng, thành thật với nhau và thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
6. Hai vợ chồng phải sống thật thủy chung với nhau, tránh những quan hệ tình ái bất chính.
7. Hai vợ chồng phải biết hy sinh cá tính để hòa đồng vào nhau, phải biết nhường nhịn và tha thứ cho nhau.
8. Hai vợ chồng phải tránh xúc phạm đến tự ái của nhau và phải trao đổi một cách tế nhị những vấn đề xảy ra trong cuộc sống dù to, dù nhỏ, không được ai lấn lướt ai, nên tìm một quyết định chung, một giải pháp chung.
9. Hai vợ chồng phải đặt hạnh phúc gia đình, danh dự gia đình, tình thương con cái, tương lai con cái lên trên tất cả mọi bất đồng nếu có để giữ hòa khí.
10. Hai vợ chồng phải thật sáng suốt trong cuộc sống lứa đôi của mình để tránh bị người ngoài mê hoặc, xúi bẩy gây ra bất hòa đổ vỡ.
Nói tóm lại, trước sự đa dạng của tâm lý, tính tình con người; những điều ngừa chữa chứng khắc khẩu trên chỉ là những tiêu biểu tương đối. Tuy nhiên, nếu biết ứng dụng vào cuộc sống một cách linh động có thể coi đó như những điều kiện tham khảo để tự chữa bệnh khắc khẩu có hiệu quả cao. Ông bà chúng ta cũng có rất nhiều lời khuyên về cuộc sống vợ chồng mà câu ca dao dưới đây đáng được ghi khắc vào tâm khảm mọi người:
Chính bản thân người viết bài này, đã có kinh nghiệm trải qua cuộc sống vợ chồng tròn 50 năm.
Tuy có đôi lúc sóng gió trong đời sống sao tránh được? Nhưng sau mỗi cơn giông tố cả hai chúng tôi đều biết tự chế nên cuộc sống vẫn êm đềm tốt đẹp đến ngày hôm nay để hãnh diện tổ chức ngày vui kỷ niệm 50 năm sống chung Hạnh phúc.
Tử vi gia Thiên Phúc
Nếu lá số của mình có cung Phối (tức cung Phu Quân, hoặc Thê Thiếp tùy theo nam hay nữ) tốt thì gần như chắc chắn mình sẽ gặp được người vợ hoặc chồng tốt, dù tuổi hai bên có Ngũ Hành xung nhau chăng nữa, nhưng thực ra hai vợ chồng hay gây gỗ nhau về những điều lặt vặt thì không hại gì cho hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên theo kinh nghiệm riêng, thì thấy thường thường những người có cung Phối "ngon lành" thì ngẫu nhiên không lựa mà vẫn gặp được ý trung nhân có mạng tương sinh.
Nhưng có điều lạ là tôi đã được biết nhiều cặp có cung Phối tốt, thế mà cặp nào có Ngũ Hành hơi xung nhau (tôi nói hơi xung, thí dụ như Sơn Đầu Hỏa, Hỏa là lửa trên núi và Giản Hạ Thủy là nước dưới khe, tuy là Hỏa-Thủy tương khắc nhau, nhưng khắc gọi là vậy thôi, vì nước trong khe làm sao dập tắt được lửa trên núi) thì lại có hạnh phúc đậm đà hơn cặp có Ngũ Hành tương sinh.
Phải chăng mặt sông có sóng gợn lăn tăn vẫn "thơ mộng" hơn mặt biển phẳng lặng chăng ? Kể ra cũng không có gì khác thường vì trên thực tế nếu cặp vợ chồng nào không bao giờ gây gỗ với nhau, hoặc không bao giờ có gì ngang trái xảy ra hạnh phúc lứa đôi thì đương nhiên là tốt thật, nhưng chưa chắc họ cảm thấy được những gì độc đáo hơn cặp vợ chồng thỉnh thoảng hờn giận nhau, rồi lại làm lành với nhau.
Tuy vậy đó là nói về phương diện tình cảm và tâm lý, chứ thật ra cặp vợ chồng có Ngũ Hành của mạng tương sinh vẫn thành công hơn về phương diện sự nghiệp.
Trong trường hợp cung Phối xấu thì thật kẹt, vì khó lòng lựa được người tương sinh với mình về Ngũ Hành, mà dù có lựa được cũng kẻ Bắc người Nam, chia ly xa cách. Tôi có một người cô ruột khi sắp lấy chồng cũng đã so đôi tuổi kỹ lưỡng lắm, mà chỉ trong vòng năm năm hai vợ chồng kẻ Âm, người Dương, cũng chỉ vì cung Phối quá xấu (!?)
II- Tìm hiểu về cung " Phối "
Trong mục này tôi chỉ nêu lên những điểm mà các sách Tử-Vi ít khi đề cập tới, hoặc có nói tới, nhưng theo một cách khác. Vì vậy các bạn đừng coi những điều dưới đây như những công thức để giải đoán về cung Phối mà chỉ nên coi là những điều bổ túc mà thôi.
1- Truyền cung là gì ?Trong bao nhiêu năm coi số Tử-Vi, tôi chỉ gặp có hai hay ba trường hợp "truyền cung". Truyền cung khác với truyền tinh , vì chỉ để ý tới cung chư không quan tâm đến các sao.
Thí dụ người chồng tuổi Hợi và người vợ tuổi Sửu (không cần xét tới hàng Can của tuổi), nếu cung Mệnh của chồng đóng tại cung Sửu (tuổi vợ) và cung Thê của người đó lại ở Hợi (tuổi chồng) còn lá số người vợ cung Mệnh đóng tại Hợi hoặc cung Phu ở Sửu (khó có trường hợp hai cung đối với lá số thứ nhì, nếu lá số số thứ nhất trùng hai cung rồi) thì gọi là truyền cung.
Cặp vợ chồng nào truyền cung như vậy thì coi như đã được một yếu tố tương hợp đặc biệt rồi, chưa cần xét đến các sao và Ngũ Hành. Nói là đặc biệt không phải hoàn toàn chỉ về phú quý mà thực ra chỉ về hạnh phúc đầm ầm nhiều hơn, còn nếu thêm được các sao quyền quý của hai cung Phối thì được cả hai khía cạnh. Dù sao chăng nữa, hạnh phúc vợ chồng tùy thuộc rất nhiều vào sự khắng khít, thương yêu nhau hơn là vào tiền bạc, công danh, miễn là cuôc sống không đến nỗi nghèo khổ quá thôi. Ngoại trừ trường hợp có những cặp vợ chồng chỉ nghĩ đến tiền thì đó là chuyện ngoại lệ, không cần bàn tới.
2- Truyền tinh
Vần đề truyền tinh giữa hai lá số vợ chồng tương tự như sự truyền tinh giữa cha mẹ và con cái. Nay tôi chỉ xin nhắc lại cần chú ý đến các sao tốt truyền tinh là hay (Thí dụ như Tử-Phủ-Vũ-Tướng, Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương, Quang-Quý,Long-Phượng, Khoa-Quyền-Lộc, Thai-Tọa,Tả-Hữu ... ) chứ nếu toàn các hung tinh, sát tinh, bại tinh truyền tinh thì thật là đại bất hạnh, vì hai vợ chồng cứ hại nhau hoài, hoặc chia ly mau lẹ !
Cũng có người nói rằng truyền tình như vậy thì hai vợ chồng vẫn thương mến nhau vì "đồng lai tương tập" nhưng đều là lưu manh một đám và hạnh phúc không bền. Kể ra chỉ đúng về khía cạnh không bền, chứ còn vấn đề "lưu manh" thì không vững, vì nếu cả hai người đều có cung Mệnh đàng hoàng thì sao, đâu có phải cứ cung Phối xấu thì Mệnh xấu đâu. Điểm này để các bạn nghiên cứu Tử-Vi chiêm nghiệm.
Trong trường hợp lá số của chồng có những sao xấu ở cung Mệnh của vợ truyền qua cung Thê và cung Phu của vợ lại có các sao tốt của chồng thì phải hiểu là người vợ rất may mắn được ông chồng đàng hoàng, tài giỏi, quyền quý trong khi mình chỉ là "của nợ" đối với chồng.
Dù cho cung Mệnh của chồng có thêm những sao "lưu manh" chăng nữa, thì người đó cũng chỉ bất lương với những người khác, còn đối với vợ lại rất đàng hoàng. Còn người vợ, dù cho Mệnh Thân trong trường hợp này có tốt cũng chỉ cư xử tử tế với bà con, anh em, họ hàng, chứ riêng đối với chồng thì lại thủ đoạn hoặc chỉ ăn hại mà thôi. Tôi đã có dịp gặp nhiều cặp vợ chồng có số như vậy và chiêm nghiệm thấy rất đúng. Vậy các bạn nào lựa vợ hoặc chồng hãy thử dựa theo tiêu chuẩn này, xem có ứng nghiệm hay không, vẫn biết rằng đã có số thì cũng chẳng lựa nổi.
Ngoài ra, có nhiều người thắc mắc không biết một đôi trai gái yêu nhau, tính kết hôn với nhau mà có số truyền tinh (sao tốt) có lấy nhau không ? Về điểm này tôi đã nghiệm thấy chỉ đúng 70 %, vỉ đâu có phải chỉ có người con gái (hoặc con trai) liên hệ đó mới có số truyền tinh. Đúng ra còn có rất nhiều người khác dù không sinh một ngày, giờ, năm, tháng mà vẫn truyền tinh chặt chẽ hơn nữa. Tuy vậy, khi mình đã yêu đúng người truyền tinh rồi thì họa hoằn lắm mới gặp được một người khác truyền tinh hơn, cho nên những đôi lứa nào đang cố gắng đi tới hôn nhân mà truyền tinh với nhau cũng không nên lo ngại lắm.
Lại cũng có người hỏi nếu không truyền tinh với nhau có phải là vợ chồng không, hoặc có cặp vợ chồng nào ăn ở với nhau rồi mà không truyền tinh hay không ? Tôi nghiệm thấy rằng khi chưa kết hôn với nhau mà không có số truyền tinh, thì gần như chắc chắn không đi tới hôn nhân được. Nhưng trái lại, tôi cũng đã gặp khá nhiều cặp vợ chồng không truyền tinh với nhau, nhưng trong trường hợp này, vợ chồng đối với nhau như người dưng nước lã, mỗi người một đường hướng, ít khi gần gũi nhau và nhất là lúc chết khó lòng gặp mặt nhau, hoặc giả cũng có khi thương yêu nhau nhưng rồi vì hoàn cảnh phải xa nhau, hay li dị nhau.
Trước khi chấm dứt mục "Truyền tinh" này tôi còn cần nêu ra một điểm nữa. Thường thường, các vị coi Tử-vi chê cung Phối có Thái Tuế-Đà La-Kình Dương (còn có vị chê cả Thai Phụ-Phong Cáo ở cung Phối nữa), cho rằng cung Phối như thế nhất là có Thái Tuế, vợ chồng dễ xa nhau, li dị nhau hoặc người bạn đời của mình chết sớm.
Điều này đúng, nhưng nếu may ra cung Phối của vợ hoặc chồng mình có sao giống như thế (cũng là một hình thức truyền tinh) thì có thể tránh được hình khắc, vì đã có sự quân bình, coi như "cán cân cân lực lượng" thăng bằng.
Nhưng ít ra phải có nhiều trắc trở éo le trước khi đi tới hôn nhân mới tốt về sau (thí dụ như cưới chạy tang, bệnh hoạn, tai nạn, bị ngăn trở, quậy phá ... ) những tay "anh chị" gặp nhau thường hay thử tài nhau trước khi liên kết với nhau là thế. Chính cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam đã cho tôi biết điểm này khi cụ còn sinh tiền.
3- Tương quan giữa Ngũ Hành các sao và vị trí của cung Phối với Ngũ Hành của bản Mệnh
Thường thường các bạn coi Tử-Vi ít khi chú trọng tới điểm này và chỉ quan tâm đến các vấn đề Miếu, Vượng, Đắc Địa hoặc Hãm địa của các sao thuộc cung Phối cùng ý nghĩa các sao đó. Như thế thiếu hẳn một yếu tố quan trọng về sự tương hợp, một yếu tố cần thiết cho hạnh phúc vợ chồng. Phàm các chính tinh (không nên xét đến các trung tinh và bàng tinh để cho khỏi rắc rối quá) ở cung Phối, nếu :
Sinh bản Mệnh thì thường được vợ hoặc chồng chiều chuộng thương yêu như thế tức là mình giữ vai trò bị động.
Được bản Mệnh sinh thì mình giữ vai trò chủ động, lo toan mọi bề cho người bạn đời của mình.
Tương hòa với bản Mệnh thì hai bên lo cho nhau một cách bình thường, theo bổn phận hơn là vì thương yêu nồng nàn.
Theo quan điểm riêng của tôi, nếu bản Mệnh là Nam thì sinh xuất. Ví dụ : Mạng Mộc sinh sao ở cung Phối thuộc (Hỏa) hay hơn hơn sinh nhập (trường hợp sao cung Phối sinh Mệnh) vì đàn ông mà để đàn bà lo toan cho mình đủ thứ thì sao đáng gọi là nam nhi. Còn bản Mệnh là Nữ thì sinh nhập hay hơn, vì đàn bà nhờ chồng nhiều mới sung sướng, trừ phi người đó muốn điều khiển chồng lại là chuyện khác.
Trong trường hợp gặp sao cung Phối khắc với bản Mệnh thì thật là đáng tiếc, dù sao tốt.
Thí dụ cung Phối có có Tử-Phủ đồng cung tại Dần hoặc Thân là các sao tốt hết chỗ chê, người hôn phối vừa đứng đắn, đạo đức, vừa quyền quý, cao sang, mà lại khắc với bản Mệnh thì người bạn đời của mình chẳng khác nào chiếc lọ cổ thật đẹp trưng bày mà ngắm thôi.
Thành ra người ngoài nhìn vào ai cũng trầm trồ khen ngợi trong khi chính mình chẳng ưa hoặc người hôn phối không ưa mình. Đấy là chưa kể đến trường hợp bị thêm các sao xung phá khác làm giảm hạnh phúc đi nhiều nữa.
Còn thí dụ như có Vũ-Sát khắc bản Mệnh thì lại khổ hơn nữa, vì người bạn đời của mình vừa cứng cỏi, khô khan, vừa không hợp với mình, như thế còn gì chán bằng.
Nếu xui xẻo có Tham Lang độc thủ khắc bản Mệnh của mình, lại thêm Đào-Riêu-Mộc thì chắc chắn bị xấu nhục với xã hội về người hôn phối đàng điếm.
Còn về tương quan giữa vị trí cung Phối với bản Mệnh, thì chỉ có khác là vị trí thường tượng trưng cho phía gia đình bên vợ, trong khi các chính tinh thường tiêu biểu cho chính người vợ . Về luận đoán cũng tương tự như trên, tôi thấy viết thêm ra nữa chỉ càng làm cho dài dòng vô ích.
Tôi cần lưu ý các bạn là không bao giờ nên áp dụng một cách máy móc những điểm trên, mà còn cần phải dung hòa với các yếu tố khác trước khi đi đến chỗ quyết đoán.
4- Tương quan giữa cung Phối và hai cung Mệnh và Phúc Đức
Tôi có được xem một lá số của một bà có cung Phu rất tốt (nhiều sao quyền quý và Ngũ hành tương sinh với bản Mệnh), nhưng Mệnh của bà ấy lại có Cô-Quả-Đào-Kình-Thiên Không và "Thân" có Vũ-Khúc-Lộc Tồn-Kiếp Sát, lại thêm Không-Kiếp hãm địa chiếu về (nhất là Kiếp hãm địa tại Mệnh tối kị với đàn bà) trong khi cung Phúc cũng xấu, ngoài Mệnh còn có Tử-Tham bị Triệt án ngữ cho nên bà ấy không được hưởng cung Phu và hiện nay vẫn ở góa, sau khi đã có hai chồng quyền quý, một bị chết non, một ly dị.
Bà ta còn cho biết mới đây một ông lớn muốn cưới bà ấy, nhưng vì thấy Tử-vi của mình kẹt như vậy nên bà ta còn e dè ! Xem như thế cũng đủ biết cung Mệnh có ảnh hưởng lớn lao tới cung Phối biết chừng nào. Riêng tôi, tôi vẫn thắc mắc không hiểu tại sao người chồng đầu tiên của bà lại chết non, vì cung Phối không có sao chứng tỏ sự chết non đó. Không có lẽ Mệnh, Thân của bà đó sát chồng mạnh đến thế hay sao ?
5- Ý nghĩa các sao thuộc cung Phối
Hầu hết các sách Tử-vi Tữ-Vi đã xuất bản, đều có ghi ý nghĩa các sao nên tôi thấy không cần phải nêu ra đây. Tôi chỉ xin lưu ý các bạn là ngoài sự tương quan về Ngũ Hành các sao với bản Mệnh như đã nói trên, các bạn cũng cần phải để ý xem nhóm sao thuộc cung Phối có ăn khớp với nhóm sao thuộc cung Mệnh hay không.
Ví dụ như Mệnh có Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương thì cung Phối nên có Cự-Nhật hoặc Vũ-Tướng, chứ tối kị có Sát-Phá-Liêm-Tham hoặc ngược lại cũng vậy. Về điểm này, các bạn có thể coi phần tiểu luận của cuốn Tử-vi Đẩu Số Tân Biên do Ông Vân Đằng Thái Thứ Lang biên soạn để áp dụng vào trường hợp này theo kiểu suy luận.
Ngoài ra, tôi cũng cần nói rằng các trung tinh thường phải lệ thuộc vào chính tinh (tọa thủ cũng như xung chiếu).
Tôi xin lấy một ví dụ : Nhiều người sợ sao Đào Hoa tại cung Phối vì sợ người bạn đời của mình lả lướt quá.
Nhưng nếu gặp Tử-Phủ hoặc Liêm-Tướng chẳng hạn thì lại rất hay, vừa đạo đức, xinh đẹp, vừa tình cảm.
Tuy vậy, cũng rất cần Chính tinh tương sinh với bản Mệnh (nhất là sinh xuất) thì tình vợ chồng mới mặn nồng, chứ Chính tinh khắc bản Mệnh thì tâm hồn người bạn đời của mình cũng dễ hướng về người khác, dù chỉ trong tinh thần hoặc cao thượng (vì Tử-Phủ, Liêm-Tướng là các sao đoan trang, đứng đắn).
Nếu chẳng may sao Đào Hoa phùng Tham Lang chẳng hạn, thì dù có sinh bản Mệnh cũng phiền lắm, vì làm sao mình thỏa mãn nổi người bạn đời quá ham mê nhục dục. Còn gặp trường hợp Chính tinh này (ý nói sao Tham Lang trong trường hợp này) khắc với bản Mệnh thì chắc chắn mình mau ... mọc sừng.
Qua những điểm nêu trên, các bạn hẳn tìm thấy rằng việc tìm hiểu cung Phối thật phức tạp, rắc rối, cho nên khi quyết đoán cần phải kết hợp mọi yếu tố để kẻo mắc sai lầm rất nhiều.
(Trích từ Báo KHHB của PHONG NGUYÊN)
fun forever
Jan 10 2008, 10:44 AM
QUOTE(bidong @ Jan 3 2008, 07:06 PM)
I- Xem Phu Thê phải xét Mệnh, Thân Phúc
Các sự kiện trong cung Phu-Thê mà nhà thuật số có thể cân nhắc thuộc về các phương diện hạnh phúc đời người :
1.Vợ chồng lấy nhau có dễ dàng hay bị cản trở ?.
2.Có sự hình khắc, tử biệt sinh ly không?
3.Có xung khắc nhau không ( những độ xung khắc khác nhau) hay được hòa hợp đến già ?
4.Có mấy đời vợ chồng ? Đàn ông có mấy vợ không ?
5.Vợ hay chồng có tốt không ? (Vợ đẹp, ngoan, đứng đắn hay dâm dật, xấu xa, chồng khá giả hay chồng bần tiện ... )
Muốn biết đại cương cung Phu-Thê tốt xấu, phải xem các sao trong cung đó, nhưng trước hết, cũng phải xem cung Mệnh, Thân và Phúc Đức.
Sở dĩ phải xem Mệnh, Thân và Phúc Đức, là bởi vì người có Mệnh, Thân và Phúc Đức tốt, tất cả được hưởng ảnh hưởng tốt và hạnh phúc và cái đó phải ảnh hưởng vào Phu-Thê (đó là chưa kể rằng cung Phu-Thê thuộc nhóm cung Mệnh Thân, và có các cung Phúc Đức, Quan Lộc, Thiên Di chiếu tới)
Nếu cung Phu Thê xấu mà được cung Mệnh, Thân và Phúc Đức tốt, thì cũng giải trừ được nhiều sự xấu (bớt sự xung khắc, bớt hình khắc chia ly).
Nếu Cung Phu Thê tốt, mà cung Mệnh, Thân và Phúc Đức lại xấu, thì những cái tốt của cung Phu-Thê cũng phải giảm đi.
Cũng có trường hợp Mệnh xấu, Phu-Thê xấu, lấy vợ lấy chồng gặp toàn cảnh ngộ tệ hại, thế nhưng sang đến Thân tốt , thì cũng Phu-Thê ấy, mà lại được hưởng tốt (Thân ăn về hậu vận, từ tuổi 30 trở ra; đương số lấy vợ lúc trẻ tuổi, gặp vợ lăng loàn, chịu cảnh xung khắc rồi phải ... ở góa; nhưng sang đến Thân được ảnh hưởng tốt; lại lấy được vợ tốt, hiền hòa, ăn nên làm ra, vợ chồng hòa hợp)
II-Ảnh hưởng Chính tinhQuý vị có thể coi các sách Tử-vi, đã soạn sẵn những cách và ý nghĩa khi gặp những Chính tinh miếu hay hãm, rồi lại có những cách trung tinh (nhớ xét đến Ngũ hành của bản Mệnh và Thân với các Chính tinh và trung tinh). Xin tóm tắt sau đây ý nghĩa các cách ở cung Phu-Thê :
•Tử-vi tại Ngọ: Hòa hợp đến già, khá giả
•Tư-Phủ đồng cung: Hòa hợp đến già, khá giả
•Tử-Tướng đồng cung: Cùng cứng cỏi, xích mích. Nhưng khá giả, ăn ở được với nhau.
•Từ-Sát đồng cung: Tiên trở hậu thành và lập gia đình trễ mới tốt.
•Tử-Phá đồng cung: Hình khắc hoặc kém thuận hòa.
•Tử-Tham đồng cung: Thành hôn trễ mới tốt, ghen tuông.
•Liêm Trinh đơn thủ tại Dần Thân: Mấy lần lập gia đình.
•Liêm-Phủ đồng cung: Trễ mới tốt, chung sống tốt, khá giả.
•Liêm-Tướng đồng cung: Bất hòa.
•Liêm-Sát đồng cung: Hình khắc muộn mới tốt.
•Liêm-Phá đồng cung: Bất hòa.
•Liêm-Tham đồng cung: Xung khắc.
•Thiên Đồng tại Mão: Trễ mới tốt.
•Thiên Đồng tại Dậu: Bất hòa.
•Thiên Đồng tại Tý dễ gần, dễ xa.
•Thiên Đồng tại Thìn Tuất: Xung khắc.
•Đồng Lương đồng cung: Đẹp đôi, khá giả, cưới sớm.
•Đồng, Nguyệt tại Tý đồng cung: Đẹp đôi, khá giả, cưới sớm.
•Đồng, Nguyệt tại Ngọ: trễ mới tốt.
•Đồng Cự : Xa nhau một thời rồi mới đoàn tụ.
•Vũ Khúc tại Thìn Tuất: Trễ mới tốt
•Vũ Phủ đồng cung: Có bất hòa, nhưng khá giả đến già.
•Vũ Tường đồng cung: Vợ đảm, chồng sang. Có xích mích, nhưng khá giả đến già
•Vũ Tham đồng cung : Trễ mới tốt.
•Vũ Phá đồng cung: Giỏi, trễ mới tốt
•Vũ Sát đồng cung: Hình khắc, dễ xa nhau.
•Thái Dương sáng: Hòa hợp, khá giả đến già.
•Thái Dương tối: Cưới xin trắc trở , trễ mới tốt.
•Nhật-Cự đồng cung tại Dần: Bất hòa nhưng chung sống đến già.
•Nhật-Cự đồng cung tại Thân: Trễ mới tốt.
•Nhật-Nguyệt đồng cung: Khá giả, nhưng trễ mới tốt.
•Thiên Cơ ở Tỵ, Ngọ, Mùi:Thành hôn sớm, khá giả, ở được với nhau
•Thiên Cơ ở Hợi, Tý, Sửu: Trễ mới tốt.
•Cơ Lương đồng cung: Lấy dễ, khá giả hòa thuận đến già.
•Cơ Cự đồng cung: Người xứng đáng, trễ mới tốt.
•Cơ nguyệt đồng cung ở Thân: Người xứng đáng, cưới sớm.
•Cơ nguyệt đồng cung ở Dần :Hay khó khăn, trễ mới tốt.
•Thiên Phủ ở Tị, Hợi: Khá giả, hòa thuận đến già.
•Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu : Khá giả và chung sống đến già tuy hay cãi nhau.
•Thái Âm sáng: Khá giả, cưới sớm, chung sống bạc đầu.
•Thái Âm tối: Bất hòa, hôn phối không tốt, trễ mới tốt.
•Tham Lang tại Thìn, Tuất, Tý, Ngọ: Tốt, nhưng hay ghen. Trễ mới tốt.
•Cự Môn tại Tý, Ngọ, Hợi: Khá giả, ở được với nhau, nhưng hay bất hòa.
•Cự Môn tại Thìn, Tuất, Tỵ: Xung khắc, hay bỏ nhau.
•Thiên Tướng: Trai nể vợ, gái lấn áp chồng, trễ mới tốt.
•Thiên Lương Tý Ngọ:Vợ đẹp, chồng sang, khá giả.
•Thất Sát: Trễ mới tốt, sớm thì hình khắc chia ly.
•Phá Quân: Trễ mới tốt, sớm thì hình khắc chia ly.
III- Ành hưởng của Trung Tinh và Hung Tinh
Các trung tinh tốt cho thêm ảnh hưởng tốt, về vợ hay chồng khá giả và về sự thuận hòa: Xương, Khúc, Khôi, Việt.
Sát Tinh (Không-Kiếp, Kình-Đà, Linh-Hỏa) : miếu vượng, thì chủ bất hòa, hoặc chia ly thời gian ngắn; hãm thì hình khắc, họa hại , người hôn phối xấu xa, bậy bạ ... Cũng phải xét thêm ở chỗ giao ảnh hưởng với các sao khác :
•Tả-Hữu: Tăng ảnh hưởng cho sao tốt hoặc cho sao xấu.
•Hóa Lộc: hôn phối giàu.
•Hóa Quyền: Vợ lấn quyền, chồng sang.
•Hóa Khoa: Hôn phối có học, có chức.
•Hóa Kị: Bất hòa.
•Lộc Tồn, Cô-Quả: Nên cưới trễ sẽ tránh chia ly.
•Thiên Mã: Nên duyên ở nơi xa.
•Phục Binh: Đi lại với nhau rồi mới cưới.
•Tướng Quân: Đi lại trước, cưới sau.
•Ân Quang, Thiên Quý:Vì ân tình mà lấy nhau.
•Song Hao: Cưới dễ hoang tòan.
•Cô, Quả: Bất hòa, hay xa cách.
•Đào, Hồng: Cưới xin dễ dàng, nhưng nếu Đào Hồng hãm : hình khắc chia ly.
•Thiên Diêu: Hoang dâm, bất chính.
•TUẦN-TRIỆT: Trễ mới tốt (để khỏi bị hinh khắc)
IV- Ảnh hưởng Chính Tinh so với Trung Tinh
Trong cung Phu-Thê, có cả chính tinh và trung tinh gặo nhau thì ảnh hưởng của Chính tinh mạnh hay ảnh hưởng Trung tinh mạnh ?
Xin thưa : Ảnh hưởng Chính tinh mạnh hơn ảnh hưởng Trung tinh.
Vậy nên chính tinh mà tốt, gặp Trung tinh xấu, thì cái tốt chỉ giảm đi chứ không bị xấu.
Nếu chính tinh có ảnh hưởng xấu gặp trung tinh tốt, thì cái xấu bớt đi chứ
cái tốt chưa có
Tuy nhiên có nhưng cách cố định, gặp phải là có một ảnh hưỡng nhất định, hoặc có những Trung tinh, hung sát tinh mạnh thì ảnh hưởng có khi lấn át cả Chính tinh.
V- VÀI DỮ KIỆN THÍ DỤ
- Phu-Thê có Cô-Quả, Đào-Hồng hãm, Tả Hữu, Không -Kiếp là báo hiệu sự hình khắc, chia ly.
- Lộc Tồn, Vũ Khúc, Cự Kỵ cũng thường báo hiệu sự chia ly.
- Một người có Tử-Phủ, Không Kiếp ở Thê, là cái tốt bị phá mất, mai mối nhiều lần không xong. Nhưng nếu sang Thân (ứng về hậu vận từ 30 tuổi trở ra), tốt thì lại dở. Người đó lập gia đình muộn,từ năm 35 tuổi trở đi, được tốt.
-Sự kiện được ghi ở các cách chính tinh nêu ở trên (trễ mới tốt) được nghiệm ra là rất đúng. Gặp những chính tinh đó lập gia đình trễ thì không sao, tức là tránh được hình khắc chia ly.
-Xem vợ bé, phải xét cung Nô.
Tuy nhiên, cũng có cách người góa vợ, lấy vợ sau, phải đoán ra. Như gặp Tả-Hữu, Hồng Đào hãm, Không Kiếp, Cô Quả là cách góa vợ, nhưng lấy vợ sau thì khác đi.
- Có Tuần Triệt thì lập gia đình gặp cản trở. Hai người chê nhau, hoặc gặp khó, nhưng chỉ khó lần đầu thôi. Không phải có Tuần Triệt là không có vợ chồng. Còn Tuần Triệt gặp Tướng thì hình khắc (Tướng ngộ Tuần hay Triệt là cách độc).
Một người Mệnh có Liêm Trinh đắc địa, Thiên Không, Hồng Loan tại Dần, Thân, Tị, Hợi , là người đứng đắn, lòng chỉ muốn tu, thì không nghĩ đến việc lập gia đình. Tuy nhiên đến năm 35 tuổi gặp Đào, Thai, Phục, Vượng, Tướng... lòng tự nhiên thấy mở rộng ra tình yêu hoặc gặp trường hợp đặc biệt (!?) , thế là thành vợ thành chồng. Có sao đứng đắn , phải gặp lúc có những sao thật bay bướm mới thành hôn.
VI- Hạn lấy vợ, lấy chồng
-Xưa lập gia đình, nay trễ. Như vậy, cũng những người đó, những lá số đó, hoàn cảnh đất nước (như chiến tranh, đời sống khó khăn, việc lập sự nghiệp đeo đẳng kéo dài ....) có thể làm lệch số mạng chăng ? Cũng không hẳn thế, là vỉ có số mạng, nhưng cũng có con người quyết định mới được.
-Vậy chăng. số vẫn có, bởi vì những cách báo hỉ vẫn xuất hiện, không năm nay thì qua năm khác.Năm nay không báo hỉ, không hôn nhân thì thi đậu, hay đi làm, không thi đậu, đi làm thì hôn nhân.
Sau đây là nhưng vận hôn nhân :
•Đại Tiểu hạn trùng phùng tại cung Phu hay Thê (Đại Hạn ở Thê cung. Tiểu hạn cũng vào cung đó.
•Hạn có Nhật-Nguyệt chiếu.
•Hạn có Đào Hồng Hỉ .
•Hạn có Sát, Phá , Liêm, Tham .....
Tức là những hạn có hỉ tinh. Phải xem cả Đại hạn và Tiểu hạn. Đại hạn có cách báo hỉ. Tiểu hạn cũng có cách báo hỉ, thì đó là hạn thành hôn.
VII- Trường hợp Thân Cư Thê và chồng sợ vợ
Người đời thường bảo rằng Thân đóng ở Thê là người sợ vợ , hay nói cho nhẹ đi là người nể vợ, điều đó rất sai.
- Thân cư Thê : Không phải là sợ Vợ.
- Thân cư Thê cũng không đương nhiên là nhờ vợ, cũng không phải Thân cư Phu là đương nhiên nhờ chồng. Thật thế, Cung Thê hay Phu mà xấu thì nhờ được nỗi gì đây? Họa chăng là cung đó tốt, nghĩa là chồng hay vợ được giàu sang, mình mới nhờ.
-Vậy Thân cư Thê có nghĩa là gì ? Có nghĩa là cuộc đời của đương số chịu ảnh hưởng liền vào với vợ. Thân cư Phu cũng vậy. Chịu ảnh hưởng thì rời ra không được. Một Ông Thân cư Thê mà chúng tôi biết được một bà xã rất tháo vác, một tay quán xuyến việc nhà, ông không phải lo gì hết. Một ông khác Thân cư Thê, giao hết con cái cho vợ để ông đi làm chính trị, đôi khi ông cũng léng phéng, nhưng các cô mèo chỉ đi thoáng qua và ông vẫn coi vợ trọng hơn hết. Cũng có thể là ảnh hưởng bà xã mạnh ông chồng nể vợ là ở chỗ đó.
Thế tại sao chồng lại sợ vợ ? Gặp cách nào thì chồng sợ vợ ? Đó là khi cung Thê có quyền tinh. Vợ mà có quyền thì ông chồng phải sợ. Các cách quyền tinh ở cung Thê là những cách đứng đắn và quyền hành :
•Thiên Tướng, Quốc Ấn (mạnh)
•Tướng Quấn, Quốc Ấn (mạnh vừa)
•Hóa Quyền
•Khôi, Việt.
•Tử-vi, Tả, Hữu.
•Thiên Phủ, Tả Hữu ...
DÀN ÔNG SỢ VỢ gặp những cách nào trong tử vi
Trong cuộc sống hàng ngày có thể nói vấn đề “sợ vợ” thường được đề cập tới, bất luận đối với giới nào. Vì vậy, trong lĩnh vực tử-vi, tôi cũng muốn nêu vấn đề này ra và mong sẽ ”mua vui” được cho quý bạn trong dịp chọn ý trung nhân, hay người đã có gia đình rồi, đồng thời tôi cũng xin cáo lỗi trước với bạn nào tình cờ nằm trong trường hợp điển hình mà tôi nêu ra dưới đây, vì sự trùng hợp rất dễ xảy ra trên phương diện lý thuyết tử-vi.
Tôi còn nhớ hồi mới học Tử-Vi, mỗi khi ông này , ông nọ hỏi tôi xem lá số có biết nói thế nào là người chồng sợ vợ hay không ?, thì tôi chỉ cần vài giây đồng hồ là khẳng định liền, một cách rất ư là tự tin, vì tôi cho rằng khía cạnh đó dễ ợt, cứ việc xem CUNG THÊ có Hóa Quyền hoặc Tướng Ấn hay không hoặc “THÂN” có cư THÊ và có Thái Âm tọa thủ hay không .v.v.v. Thật là đơn giản và rõ rệt như hai với hai là bốn. Và khổ một nỗi là rất nhiều lần trúng, nên tôi càng hãnh diện về sự hiểu biết tử-vi của mình, nhưng đôi ba lần bị sai trật hẳn mặc dầu giờ sinh trúng thì đâm ra ấm ức chẳng biết giải thích làm sao. Về sau tôi có gặp được vài vị cao thâm tử-vi chỉ dẫn khá kỹ càng về khía cạnh đoán “sợ vợ”, khiến cho tôi như bừng tình giấc mơ và cảm thấy hổ thẹn về khả năng tử-vi của mình. Bây giờ tôi xin cố gắng tổng hợp lại những điều đã học được cùng những kinh nghiệm riêng của tôi, để giúp quý bạn có một ý niệm chính xác hơn về vấn đề nêu trên, và tôi tạm chia bài này làm hai phần:
1- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ TƯƠNG ĐỒNG
2- CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ CHÊNH LỆCH
__________________________________________________ _______
1-CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ TƯƠNG ĐỒNG
Trước hết tôi cần phải nói rằng, bao giờ ta cũng phải so sánh thật kỹ lưỡng và tỷ mỷ hai cung Mệnh và Thê, chứ không thể xét đơn thuần một cung Thê để xem có sự chênh lệch hay tương đồng. Trong mục này tôi bàn riêng về hai cung tương đồng, phần hai dành cho trường hợp hai cung chênh lệch.
Chắc quý bạn thắc mắc không biết làm sao phân biệt được tương đồng hay không vì các yếu tố tử-vi rất uyển chuyển chứ đâu có rõ rệt và cố định. Thực ra điểm này rất tương đối, nghĩa là quý bạn cứ tạm cho các sao cùng một nhóm đều tương đương với nhau hoặc nhóm này tương đương với nhóm khác. Tỷ dụ như Nhóm Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cùng có một “năng lực” như nhau hoặc nhóm Cự Nhật có thể sánh với Phủ Tướng .v.v.. Trường hợp cung Mệnh và cung Thê cùng Vô chính diệu thì các trung tinh và bàng tinh sẽ đóng vai trò chủ yếu mặc dầu chính tinh của cung xung chiếu vẫn gây ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp. Tỷ dụ như một cung có Khôi Việt, còn cung kia có Hóa Khoa, Thai Tọa thì tạm coi là tương đồng.
Khi nhận định được yếu tố tương đồng rồi ắt là ta có khái niệm về “cán cân lực lượng” của đôi bên nhưng đừng vội cho như thế là hai vợ chồng chẳng ai bắt nạt được ai vì còn cần xét thêm như sau :
– Nếu “hành” bản mạng (của chồng) tương hòa với chính tinh tại cung Thê thì không có sự lấn át với nhau, nhưng nếu khắc chính tinh hoặc được “hành” của chính tinh sinh thì người chồng trội hơn vợ. Còn trường hợp sinh chính tinh thì chồng phải “o bế” vợ khiến cho vợ làm tàng, nhưng không thua thiệt bằng trường hợp chính tinh khắc bản mạng.
– Sau khi xét đến “hành” sinh khắc phải để ý xem cung nào (Mệnh hoặc Thê) có nhiều sao phú và quyền quý hơn, nhất là khi các cung này vô chính diệu. Tỷ dụ như Mệnh có Tử-Sát hội Hóa Khoa trong khi cung Thê có Phủ Tướng (tức là tương đương với Tử-Sát) mà lại thêm Song Lộc, Long Phượng, Thai, Tọa thì người vợ cao sang, giàu có hơn chồng, hoặc xuất thân từ một gia đình quyền qúy hơn gia đình nhà chồng, như thế là có yếu tố lấn áp chồng. Đấy là tôi chưa kể đến sao Hóa Quyền là sao biểu lộ rõ rệt sự đàn áp (thuộc phần 2 bàn về sự chênh lệch mạnh mẽ mà tôi sẽ nói sau).
– Sau nữa phải lưu ý đến các sao tháo vát, thông minh, lanh lẹ dồn vào cung nào. Tỷ dụ như Khôi Việt, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hồng, Hỷ đều hội chiếu vào cung Thê thì cung Mệnh phải chịu lép, dù cho chính tinh của hai cung tương đồng.
– Sau hết ta còn phải phối hợp với Đại hạn, sở dĩ không xét đến tiểu hạn là vì một năm chưa đủ để thay đổi phong độ của một người, chẳng lẽ năm trước ta đang sợ vợ mà năm sau lại dám bắt nạt vợ hay sao ? Còn Đại hạn 10 năm là một giai đoạn có thể làm đảo lộn từ thể chất tinh thần một người. Do đó ta mới cần kết hợp với Đại hạn thật tốt và thật phù hợp với Mệnh tức là đời người đó “lên hương” mạnh khiến cho vợ phải kiêng nể, kính mến, nhưng nếu Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với mệnh lại “ăn khớp” với cung Thê thì đó là môi trường thuận lợi cho vợ lên mặt.
Ví dụ : Mệnh có Cự Nhật và cung Thê có Đồng Âm mà gặp Đại hạn có Cơ Lương (Thìn-Tuất) hội Quyền Lộc thì chỉ lợi cho Thê vì Cơ Lương ưa nhóm Đồng Âm hơn Cự Nhật và kéo theo cả Quyền Lộc. Do đó Đại hạn tuy tốt mà không phù hợp với Mệnh, thành ra vợ có cơ hội trội hơn chồng.
Qua những điểm phân tích trên đây, quý bạn hẳn nhận thấy rằng có nhiều người chẳng thấy gì là sợ vợ qua lá số của họ mà trên thực tế họ đúng là hạng “râu quặp”, đó chẳng qua là quý bạn không cân nhắc kỹ lưỡng mà thôi. Và ngay cả khi quý bạn kết hợp tỷ mỉ nhưng máy móc quá; cũng vấn có thể sai lầm. Ví dụ như khi thấy cung Thê có chính tinh tương đồng với cung Mệnh mà lại hội nhiều sao quyền quý, nếu bạn kết luận ngay là chồng sợ vợ cũng có trường hợp chẳng đúng; vì nếu có thêm các sao hiền thục như Tràng Sinh, Đế Vượng, Quan Phúc thì chừng đó người vợ tuy cao sang, quyền quý nhưng nhất mực phục tòng chồng, chẳng khi nào dám khinh khi chồng. Cái khó khăn là ở chỗ thêm bớt, kết hợp cho tinh vi và uyển chuyển.
Tuy nhiên, nói chung khi trúng vào mục 1 này, qúy bạn có thể nắm được yếu tố tiên khởi là không có sự lấn áp mạnh mẽ giữa hai bên. Do đó, sau khi “gia giảm” theo các tiêu chí mà tôi đã nêu ra ở trên , qúy bạn có thể kết luận là khía cạnh “sợ vợ” ngược lại chỉ là “nể nang” mà thôi nếu có thêm yếu tố chứng minh liên hệ.
2-CUNG MỆNH VÀ CUNG THÊ CHÊNH LỆCH
Phần này mới đích thực là phần quan trọng vì vấn đề sợ vợ hay không ? sẽ nổi bật trong lá số, nhưng chính cũng vì thế mới dễ lầm và khó đoán. Tôi không muốn nói là luôn luôn phải đoán trái ngược lại, nhưng ta phải cận thận vì có trường hợp không ứng nghiệm chút nào. Về phần nguyên tắc cũng tương tự như phần 1, nhưng về phần thực hành khó hơn nhiều. Do đó tôi thấy cần đưa ra nhiều ví dụ điển hình để quý bạn giải đoán linh động và uyển chuyển hơn.
– Nếu bình thường Mệnh có Thiên Phủ gặp Tuần Triệt án ngữ mà cung Thê có Liêm Phá chẳng hạn thì phải nói rằng sự chênh lệch qúa rõ ràng, vì Thiên Phủ hiền lành bao nhiêu thì Liêm Phá dữ dằn bấy nhiêu. Do đó khi không có yếu tố gì khác chế hóa ta có thể kết luận là chồng sợ vợ tuyệt đối, chẳng cần có Hóa Quyền hay Tướng Ấn cư Thê. Nhưng nếu trong trường hợp này, Mệnh không bị Tuần Triệt án ngữ và lại có thêm Hóa Khoa, Xương Khúc, Tả, Hữu, Thai, Tọa, Song Lộc, Đào Hồng thì đừng vội kết tội người chồng sợ vợ, vì khi ấy người chồng hội đủ mọi “phương tiện” để bắt vợ vào khuôn phép một cách rất tinh vi, khoa học và tế nhị. Người vợ khi đó trái lại chỉ hùng hục làm việc tay chân cả ngày để phục vụ chồng vì Liêm-Phá đã chuyển hướng từ miệng la hét qua làm lụng bằng chân tay. Trường hợp này nếu cung Thê có thêm Tướng Ấn cũng chẳng sao, có khi còn tăng thêm hiệu lực quán xuyến nội trợ, để cho chồng được hưởng thụ mà thôi. Vì dù sao Thiên phủ cũng chủ về bề thế, thanh nhàn và hưởng thụ.
– Nếu Mệnh vô chính diệu (thường bị coi là yếu mềm nhu nhươc) và cung Thê có Tử-Sát chẳng hạn, lại hội thêm Tướng-Ấn, Hóa Khoa, Long Phượng, Hổ, Cái, Quang, Qúy, Lộc, Mã ai thấy mà chẳng đoán là vợ nắm quyền hoàn toàn, thế mà vẫn có trường hợp không ứng nghiệm; là vì khi cung Mệnh có Tang Hổ, Tả Hữu, Thai Tọa, Thanh Long, Mộc Dục chẳng hạn, thì cung Thê khi đó gần như bị vô hiệu hóa về khía cạnh bắt nạt chồng. Tại sao vậy ?. Vì các sao Tang Hổ tuy chỉ là sao ưu tư phiền muộn theo nghĩa bình thường nhưng thực ra cũng chủ về uy lực tiềm tàng hoặc gián tiếp, chủ về óc cách mạng (canh tân, đổi mới …), quật cường, như thế đâu có chịu nhục nhã, kiềm chế. Thêm vào đó có bộ Thai Tọa còn chủ về tư cách, bề thế, chững chạc đâu có để cho tự ái bị va chạm mạnh mẽ. Ngoài ra, Thai Tọa còn chủ về thích an nhàn nên thường cho vợ quán xuyến mọi việc (ứng vào Tướng-Ấn) để mình lo việc khác có tính cách “đàn ông” hơn. Còn Thanh-Long hội Tả Hữu chủ về ăn nói khéo léo, lý luận vững vàng tháo vát xoay xở thì làm gì mà không thuyết phục nổi vợ khi vợ muốn lấn áp, nhất là khi có sao Mộc Dục hội với sao Thanh Long là cách “thừa vạn phái dĩ thanh quang” (nghĩa là có tiếng thơm) chứng tỏ được người đời thán phục, hàng xóm làng giềng khen ngợi, như thế không có lẽ lại “râu quặp” để mang tai mang tiếng nhục nhã ?. Do đó bao nhiêu cái trội ở cung Thê chỉ là để phục vụ đắc lực cho chồng hưởng thụ thanh nhàn; nếu đôi khi những sao “hách” muốn hoạt động thì chừng đó người vợ chỉ lộ ra với người khác mà thôi.
– Thường thường ai cũng ngán cung Thê có Hóa Quyền, Tướng Ấn, Kình hoặc Đà vì như thế dễ bị vợ sai khiến, áp đảo dễ dàng, nhưng yếu tố này này cũng chưa hẳn tuyệt đối nếu cung Mệnh có những yếu tố chi phối nổi các sao đó, tỷ dụ như có Liêm Sát hội Khôi Việt, Tả Hữu, Thanh Long, Song Lộc thì những sao trên sẽ phục tùng hoàn toàn. Nhưng trong trường hợp này còn phải dựa thêm vào Đại hạn tốt cho cung Mệnh (như đã bàn ở phần 1) thì mới chắc ăn vì cung Thê có “lực lượng” quá hùng hậu không dễ gì áp đảo được mạnh mẽ.
– Trong một vài sách Tử-Vi có nêu ra trường hợp “Thân” cư Thê có Thái Âm tọa thủ là sợ vợ. Nếu cứ áp dụng như thế rất dễ bị sai lầm vì tôi có xem nhiều lá số có trường hợp đó mà chẳng hề sợ vợ chút nào, trái lại còn được vợ chiều chuộng hết mình. Sở dĩ “công thức” trên không ứng nghiệm vì có những yếu tố khác chế hóa mạnh mẽ : Bình thường “Thân” cư Thê tức là phải nương nhờ vợ, nhất là khi có Thái Âm tọa thủ (vì sao này chủ về vợ mà đóng đúng tại cung Thê thì không khác gì cá gặp nước, rồng gặp mây tha hồ thao túng, hoạt động), nhưng khi cung Thê có Quan, Phúc, Tràng Sinh, Đế Vượng, bộ Tứ Đức, Long Phượng, Quang Quý … thì người vợ khi đó nai lưng ra mà phục vụ chồng, yêu thương chồng, còn người chồng chỉ vui chơi suốt ngày, chẳng phải quan tâm đến chuyện sinh kế hằng ngày, nhất là khi cung Mệnh có những sao thành nhàn bề thế (như Thai Tọa, Hỷ Thần, Phong Cáo, Thai Phụ …) và cung Phúc Đức tốt có yếu tố thụ hưởng (như Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thanh Long … ). Rất có thể trước nhãn quan của thiên hạ người chồng trong trường hợp này bị coi là nhu nhược, hèn hạ vì ăn bám vợ nhưng thực sự thì không có vấn đề “sợ vợ”. Lẽ dĩ nhiên nếu cung Mệnh và Phúc đều xấu và cung Thê lại thêm Hóa Quyền, Kình, Đà chẳng hạn thì khi đó người chồng thực là bất hạnh vì hoàn toàn nô lệ vợ, có khi bị vợ coi như kẻ ăn người ở ….
– Những thí dụ trên đây cho thấy có yếu tố sợ vợ mà vẫn không ứng nghiệm vì đó là yếu tố “nổi” đã bị yếu tố “chìm” làm mất hiệu lực. Ngược lại cũng vậy, nhiều khi thấy cung Mệnh mạnh hơn cung Thê gấp bội mà vẫn chịu thua vợ. Tỷ dụ như Mệnh có Liêm-Tham (Tị hoặc Hợi) hội Hóa Quyền mà cung Thê có Thiên Phủ gặp Tuần thì đúng là chồng bắt nạt vợ tuyệt đối, nhưng khi cung Thê không bị Tuần án ngữ thì Thiên Phủ lấy lại được năng lực bình thường của một chính tinh “đầu đàn” đủ sức làm cho Liêm-Tham nể vì, nhất là khi có thêm Tả, Hữu, Xương, Khúc, Quang, Quý, Hình, Hổ, Song Lộc thì người chồng khó lòng mặt được, nếu có tức khí la hét được vài tiếng thì cũng chùn bước trước cách cư xử và thái độ khéo léo, tế nhị nhưng đầy uy nghi của người vợ. Thực tế, nếu quý bạn xét kỹ lưỡng các sao phụ trên thì thấy nguyên Song Lộc (cách của Lã Hậu – Lã Hậu sinh năm Giáp Dần ngày 7 tháng 3 giờ Dần :Lá số minh họa Lã Hậu cũng đủ quyền hành áp đảo người chồng), huống chi lại có thêm Tả Hữu, Xương Khúc, Quang Qúy là các sao khôn khéo, bặt thiệp cộng thêm Hình Hổ là các sao tăng cường hiệu lực của lời nói cũng như hành động, trong khi đó Liêm-Tham của của chồng chủ về “hữu dõng vô mưu” đâu có đủ sâu sắc mà đương đầu lại nổi.
Về phần hai này, nói chung phải luôn chấp nhận rằng ít khi có trường hợp ứng nghiệm trái ngược. Do đó qúy bạn cần hiểu là những thí dụ tôi nêu ra trên đây đều là ngoại lệ, và tôi mong qúy bạn không có người nào gặp trường hợp cung Thê hoặc cung Phu qúa trội để khỏi phải mất công tìm kiếm những yếu tố khác chế hóa đi.
Tôi ước mong bài trên đây có thể giúp được quý bạn phái nam nhận ra được phần nào năng lực của mình đối với người bạn đời để liệu cách “đối phó” hoặc điều chỉnh cách sống làm sao cho gia đình được êm ấm thuận hòa. Còn đối với quý bạn phái nữ, tôi chắc quý bạn sẽ sáng suốt hơn khi nhận định về người chồng của mình và sẽ không tìm cách bắt nạt hoặc lấn quyền một cách bừa bãi và mù quáng để hạnh phúc lứa đôi khỏi bị xáo trộn.
So đôi tuổi vợ chồng trên lá số Tử vi Đông phương
Trên lá số Tử vi Đông phương, cung Thê trên lá số Nam chỉ về đường Hôn phối; cung Phu trên lá số Nữ chỉ về đường phu quân. Chúng ta có thể xem xét qua cung Phu Thê để biết được tình trạng của cả hai về đường Phối ngẫu. Tính chất về người Hôn phối có nhiều sự kiện khác nhau mà khoa Tử vi Đông phương cho thấy tương đối khá chính xác: trường hợp một người Nam hay Nữ trong đời có mấy lần thành hôn, trường hợp chồng sợ vợ, trường hợp khắc kỵ nhau, trường hợp hòa thuận.
Nguyên tắc cơ bản đầu tiên
Nguyên tắc đầu tiên nên ghi về cung Phối Ngẫu, là một sự khác biệt trong cách giải đoán tùy theo là cung Phu hay là cung Thê. Như lá số Nam có cung Thê thì giải đoán ở cung này là về phần người vợ. Còn lá số Nữ có cung Phu thì một số giải đoán ở cung này không ứng về phần người chồng, mà ứng về phần người vợ, tức là người có lá số.
Thí dụ: Một người Nam có Thiên Tướng ở cung Thê thì đó có nghĩa là bà vợ rất tháo vác, đảm đang, tinh thần cứng cỏi và ông chồng phải nể nang, kính trọng! Nhưng một bà có Thiên Tướng ở cung Phu, thì lại không có nghĩa là bà ấy sợ chồng, mà lại vẫn có nghĩa là ông chồng phải kiêng nể vợ. Nguyên do là vì theo cái đạo “xuất giá tòng phu” của Đông phương xưa là vậy.
Cũng có trường hợp là sự truyền tinh ở 2 lá số Tử vi của Nam Nữ vợ chồng. Như cung Thê của Nam số có Tử vi thì cung mạng của Nữ cũng có Tử vi.
Trường hợp vợ khắc chồng
Người vợ khắc chồng là người có mấy đời chồng hay ly dị chồng, hoặc bị chồng bỏ, hoặc chồng chết yểu góa bụa. Nhưng đừng tưởng mạng người Nữ khắc chính tinh ở cung Phu, là khắc chồng (vì mạng chồng lớn, vợ không thể khắc dễ dàng). Điều đó chỉ có nghĩa là Hôn phối bị trắc trở.
Cái chính là số chồng phải yểu thì mới bị góa chồng; còn số chồng vững thì không sao. Ngoài ra, xem cung Phu của người Nữ, việc quan trọng là phải nhìn cung Mạng xem có Không, Kiếp hay Phi liêm hay không. Người Nữ mà có Không, Kiếp ở mạng, nếu lại không có sao giải như Hóa khoa, Thiên quan, Lộc tồn là số người long đong về đường chồng con; có thể có mấy đời chồng. Còn như không có Không, Kiếp thì chẳng sao.
Tuy nhiên vẫn có nhiều trường hợp do “đức năng thắng số” khi người ta biết cải số hữu hiệu; có nghĩa là biết tu nhân tích đức và ăn ở tốt với chồng con vẫn giữ được hạnh phúc trọn đời. Cho
nên ca dao về lý số có câu:
Những người cứ số là ngu,
Ta thời lấy Đức mà tu với Trời.
Những trường hợp sợ vợKhi nào thì một người nam có lá số Tử vi sợ vợ? Kinh nghiệm giải đoán qua nhiều lá số giúp chúng tôi rút ra những quy tắc sau đây:
1. Mỗi cung số ở vào một bộ tam hợp; có một hành gọi là hành của tam hợp. Có 4 bộ tam hợp là:
- Dần, Ngọ, Tuất: Hành Hỏa
- Tỵ, Dậu, Sửu: Hành Kim
- Thân, Tý, Thìn: Hành Thủy
- Hợi, Mão, Mùi: Hành Mộc
Thí dụ: Một người Nam tuổi Nhâm Thìn số Tử vi có Mạng ở cung Hợi, Thê ở cung Dậu.
Tam hợp Mạng (Hợi, Mão, Mùi) thuộc Mộc.
Tam hợp Thê (Tỵ, Dậu, Sửu) thuộc Kim.
Ta có Kim khắc Mộc, tức là Tam hợp Thê khắc Tam hợp Mạng: người Nam tuổi Nhâm Thìn này là người sợ vợ. Thực tế nhìn bên ngoài chúng ta sẽ nhận thấy người Nam này rất hiền lành, tốt.
Ngược lại ở lá số Nữ, tam hợp Phu khắc tam hợp Mạng, lại không có nghĩa là vợ sợ chồng, mà vẫn có nghĩa là người Nữ đó cầm quyền trong gia đình, ông chồng phải kính nể vợ.
2. Ở lá số Nam có cách Thân cư Thê; có nghĩa là vận mạng mình bị ràng buộc vào người vợ hay nói cách khác là sự nghiệp của mình trong đời phần lớn do người vợ góp sức mới nên. Lẽ đương nhiên phải gặp được người vợ hợp tuổi và đảm đang thì mới được hưởng giàu sang mãn nguyện trọn đời.
Số Nữ Thân cư Phu nên được cung Phu tốt thật là sung sướng hạnh phúc một đời:
Chàng nên danh giá, thiếp còn trẻ trung.
Cho nên giải đoán cung Phu và cung Thê trong lá số Tử vi phải khác nhau.Trường hợp khắc kỵ, chồng mấy đời vợ
Hồi còn sống ở Saigon, VN, chúng tôi có may mắn được đến học Tử vi với cố Lý số gia Thiên Lương (xin đừng lầm với Pháp sư Thiên Lương, cư sĩ Thiên Lương hoặc Suma Thiên Lương... đang quảng cáo trên các tờ báo thương mại ở hải ngoại này). Một hôm có người cầm lá số Tử vi đến hỏi cụ Thiên Lương về cung Thê. Cụ liếc qua lá số trên tay rồi nói ngay:
- Ông bị đến mấy đời vợ rồi phải không?
Ông này nhận đúng và thưa:
- Tôi có cả một người vợ chết nhưng tại sao lại như vậy được? Cung thê của tôi có chính tinh
Thái Âm vừa ở chỗ Miếu vừa ở cung Dậu là cung Âm đắc cách. Như thế là quá tốt. Sách Tử vi nào cũng nói có Thái Âm tại Dậu ở cung Thê là rất tốt. Mà sao tôi lại 3 đời vợ rồi!
Cụ Thiên Lương thong thả trả lời rằng:
- Thái Âm ở Dậu tại cung Thê thì tốt thật. Nhưng mạng ông là mạng Thổ, Thái Âm là Thủy. Thổ khắc Thủy, cho nên ông khắc vợ phải chịu cảnh mấy đời vợ cũng đúng.
Ông kia lại đưa ra lá số của người anh và thưa tiếp:
- Thưa cụ, còn ông anh tôi, cung Thê có Tử vi, lại ngộ Triệt là hỏng. Sách Tử vi dạy rằng cung Thê ngộ Tuần, Triệt thì bị Hình khắc chia ly mà sao anh tôi chỉ có một vợ, sống hạnh phúc với nhau đã 40 năm nay?
Cụ Thiên Lương lại ôn tồn giảng tiếp:
- Tuy có Triệt, nhưng Tử vi thuộc Thổ. Thổ sinh cho mạng Kim nên vợ chồng toàn hảo. Chỉ chậm lấy vợ, là do ảnh hưởng của Triệt.
Do đó, chúng ta rút ra được nguyên tắc sau đây:
1. Cung Thê có Tuần, Triệt: lấy vợ trễ. Hoặc “viễn phối tha hương” tức lấy vợ ở xa nơi sinh, xa quê hương.
2. Hành mạng khắc hành chính tinh ở cung Thê, người đó khắc vợ. Nếu không có sao giải hóa thì phải có mấy đời vợ.
3. Mạng và chính tinh ở Thê đồng hành hay sinh cho nhau; hay chính tinh ở Thê khắc mạng: chung sống với nhau lâu dài. Không ở lá số Nữ, thân cư Phu là thuận chiều nhất; cuộc đời của mình ràng buộc vào chồng, được nhờ chồng và vợ có nể chồng vì được chồng cưng cũng hợp lý thôi.
4. Lá số Nam, cung Thê có Hóa quyền có nghĩa là người vợ có quyền trong gia đình. Và theo quan niệm Đông phương, người vợ là nội tướng của gia đình.
Nếu có 2 trong 4 yếu tố trên thì sự nể vợ càng rõ ràng hơn. Có khi vợ giúp chồng nhiều nên vợ cũng dễ lên mặt; có khi vì chồng quá bê bối nên phải sợ vợ; có khi vì chồng đàng hoàng không may gặp phải người vợ lăng loàn nên vì danh dự của mình mà chồng phải nể vì không dám làm to chuyện xấu mình; có khi vì chồng tánh quá lành trong khi vợ tánh quá dữ dằn, ăn hiếp chồng được mới yên.
Trường hợp vợ hay chồng hòa hợp
Ông bà ta trước kia khi lấy vợ gả chồng cho con cái thường đi coi để so đôi tuổi xem có hợp hay không? Hợp thì mới tiến tới Hôn nhân. Tuy cũng có nhiều trường hợp chẳng may gặp tuổi khắc kỵ nhưng hai bên vì nghĩa, vì tình đã kết thân với nhau thì việc cưới xin vẫn diễn ra một cách bình thường. Và ông bà ta tìm đến Thầy cao tay ấn để chọn ngày kén giờ, để yểm trấn cho cuộc lương duyên của đôi trai gái được ăn đời ở kiếp với nhau đến trọn đời.
Chúng ta trọng nghĩa khinh tài
Coi đời là một hội bài đỏ đen.
Nhưng trong việc so đôi tuổi cũng rất phức tạp vì cổ thư để lại chính thư lẫn với man thư. Nếu không gặp được Thầy có chân truyền thực học làm sao giải quyết được sự việc đi đến một cuộc Hôn nhân tốt đẹp.
Nhân đây cũng xin tóm tắt các yếu tố quan trọng như sau:
1. Hành mạng của Nam và Nữ sinh cho nhau hoặc khắc nhau.
Sinh cho nhau thì tốt, còn nếu khắc nhau thì mạng chồng khắc mạng vợ tốt hơn vì thuận lý sinh khắc.
Tốt nhất: Mạng vợ sinh cho mạng chồng. Thí dụ vợ mạng Thổ sinh cho chồng mạng Kim. Vợ giúp đỡ chồng nên sự nghiệp.
Tốt nhì: Mạng chồng sinh cho mạng vợ. Thí dụ, mạng chồng Hỏa sinh cho mạng vợ Thổ. Chồng phục vụ vợ và cả hai được sống hạnh phục.
Tốt ba: Mạng chồng khắc mạng vợ. Thí dụ, chồng mạng Mộc khắc vợ mạng Thổ. Sự khắc này thuận lý thì vợ chồng vẫn thuận thảo, ăn nên làm ra. Tuy khắc mà không sao hết.
Xấu: Mạng vợ khắc mạng chồng.
2. Điều quan trọng vẫn là so sánh 2 lá số Tử vi, thấy có sự tương hợp trong toàn bộ kể cả các đại vận. Thí dụ:
- Số Nam sống lâu mà số Nữ lại góa chồng thì không hợp. Số Nam yểu mà số Nữ sớm góa bụa thì hợp.
- Số Nam và Nữ, số con qua cung tử tức gần giống nhau là hợp.
- Giàu hay nghèo gần như nhau là hợp.
- Đại vận 10 năm trên lá số thấy sự tương đồng là điều đáng tin cậy nhất.
Làm thế nào để cải được bệnh “khắc khẩu” giữa vợ chồng?
Chứng “khắc khẩu” tuy không có vi trùng độc hại, nhưng hậu quả của nó lại rất nguy hại khôn lường. Thông thường một đôi vợ chồng đã đi đến sự khắc khẩu tất sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường sau đó. Cũng do hậu quả tai hại của chứng “khắc khẩu” mà người xưa đổ cho số mệnh là tiêu cực không đúng.
Ngày nay, xét qua góc độ “bệnh lý học” thì chứng khắc khẩu là một bệnh chứng tâm lý, bệnh căn của nó phát xuất từ việc hai vợ chồng trái tính, trái nết bất phục lẫn nhau.
Theo nhà tâm lý học người Mỹ là Jean Mason, nếu chúng ta muốn ngừa chữa chứng khắc khẩu cần phải chú ý những điều sau đây:
1. Phải tìm hiểu kỹ tâm tính của nhau trước khi kết hôn.
2. Chỉ tiến đến kết hôn khi đã thật hiểu về nhau và thấy thật phù hợp về tính ý.
3. Để tránh vợ thất vọng và coi thường, người chồng phải có một nghề nghiệp ổn định, một phẩm cách tốt đẹp, một tấm lòng bao dung.
4. Để tranh bị chồng coi rẻ, người vợ phải không vị kỷ, tháo vát việc gia đình, có phẩm chất tốt, có uy tín với mọi người trong gia đình chồng và nhất là phải có một nghề trong tay để tự lập.
5. Cả hai vợ chồng phải sống thật bình đẳng, thành thật với nhau và thương yêu tôn trọng lẫn nhau.
6. Hai vợ chồng phải sống thật thủy chung với nhau, tránh những quan hệ tình ái bất chính.
7. Hai vợ chồng phải biết hy sinh cá tính để hòa đồng vào nhau, phải biết nhường nhịn và tha thứ cho nhau.
8. Hai vợ chồng phải tránh xúc phạm đến tự ái của nhau và phải trao đổi một cách tế nhị những vấn đề xảy ra trong cuộc sống dù to, dù nhỏ, không được ai lấn lướt ai, nên tìm một quyết định chung, một giải pháp chung.
9. Hai vợ chồng phải đặt hạnh phúc gia đình, danh dự gia đình, tình thương con cái, tương lai con cái lên trên tất cả mọi bất đồng nếu có để giữ hòa khí.
10. Hai vợ chồng phải thật sáng suốt trong cuộc sống lứa đôi của mình để tránh bị người ngoài mê hoặc, xúi bẩy gây ra bất hòa đổ vỡ.
Nói tóm lại, trước sự đa dạng của tâm lý, tính tình con người; những điều ngừa chữa chứng khắc khẩu trên chỉ là những tiêu biểu tương đối. Tuy nhiên, nếu biết ứng dụng vào cuộc sống một cách linh động có thể coi đó như những điều kiện tham khảo để tự chữa bệnh khắc khẩu có hiệu quả cao. Ông bà chúng ta cũng có rất nhiều lời khuyên về cuộc sống vợ chồng mà câu ca dao dưới đây đáng được ghi khắc vào tâm khảm mọi người:
Chồng giận thì vợ làm lành.
Đến khi vợ giận, xin em anh chừa.
Tuy có đôi lúc sóng gió trong đời sống sao tránh được? Nhưng sau mỗi cơn giông tố cả hai chúng tôi đều biết tự chế nên cuộc sống vẫn êm đềm tốt đẹp đến ngày hôm nay để hãnh diện tổ chức ngày vui kỷ niệm 50 năm sống chung Hạnh phúc.
Rằng tiên hay tục ở mình
Nghìn thu hỏi khách chung tình là ai?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét