Xưa & Nay: A Bê Xê Hay A Bờ Cờ?
Trước tiên, xin xác định, hành trình ngôn ngữ tiếng Việt có cột mốc thời gian Xưa và Nay được căn cứ vào thời điểm Trước và Sau 1975 giữa bối cảnh cuộc chiến hai miền Nam-Bắc.
Qua loạt bài về hành trình ngôn ngữ, tác giả có tham vọng phản ảnh những giai đoạn lịch sử Việt Nam qua những thay đổi về ngôn từ trong cuộc sống hàng ngày.
Tôi không bàn đến việc không có nhà nên phải đi ở nhà thuê mà chỉ đề cập đến cách đọc những mẫu tự ABC. Câu trên phải đọc là “A, Bê, Xê” cho hợp vần với “Đi ở thuê”. Sẽ là điều trái cẳng ngỗng khi đọc là “A, Bờ, Cờ”, hoàn toàn không hợp với vần của câu thứ ba: “A, Bờ, Cờ – Không có nhà – Đi ở thuê”!
Như vậy, ta có 2 cách phát âm các mẫu tự, cách nào cũng đúng nhưng còn tùy thuộc vào ngữ cảnh. Có điều, dù đọc theo trường phái A, Bê, Xê hay A, Bờ, Cờ chỉ khác nhau ở các phụ âm như B, C, D… còn những nguyên âm như A, O, E, I, Y… hoàn toàn không có sự khác biệt.
Ngược dòng lịch sử, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908–1996) là một trong những người có công lớn trong việc truyền bá quốc ngữ qua Phong trào Bình dân Học vụ trước giai đoạn tản cư vào cuối năm 1946. Trong bài viết Nhớ lại Hội truyền bá Quốc Ngữ, nhân kỷ niệm 50 năm đăng trên tập san Đoàn Kết (số 405-406, tháng 9 và 10 năm 1988, xuất bản tại Paris), Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn có nhắc đến “những chữ dễ viết cho những ngón tay chưa từng cầm bút… Vì lẽ đó tôi đã bắt đầu sách bằng hai chữ I, Tờ”.
Trong cuốn “I, Tờ”, Giáo sư Hãn đã đưa ra cách phát âm các mẫu tự B, C, D, Đ… bằngBờ, Cờ, Dờ, Đờ… và các phụ âm kép NG, PH, TH, TR là Ngờ, Phờ, Thờ, Trờ… Chẳng hạn, để đánh vần chữ Ba, theo Giáo sư Hãn, sẽ là Bờ A Ba. Cách đánh vần này sẽ dễ dàng hơn Bê A Ba. Trong trường hợp phụ âm kép như chữ Thơ sẽ đánh vần là Thờ Ơ Thơ thay vì Tê Hát Ơ Thơ. Nói chung, phương pháp đánh vần của Giáo sư rất đơn giản nhưng lại rất thích hợp, nhất là đối với những người lớn tuổi muốn học chữ quốc ngữ. Bên cạnh đó là những vần thơ giúp người học dễ nhớ như:
Từ đó, ta có cách dạy đánh vần chữ quốc ngữ theo phương pháp I Tờ, một thuật ngữ gắn liền với Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn. Ông là một học giả đa tài trong nhiều lãnh vực: giáo sư toán học, kỹ sư, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục. Ông cũng là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên (*).
Ở Việt Nam ngày nay, chữ “I Tờ” khá phổ biến nhưng không còn mang ý nghĩa ban đầu của Giáo sư Hãn. I Tờ hoặc I Tờ Rít là một tĩnh từ chỉ sự dốt nát kiểu lớp ba trường lànghay không chuyên môn như trong câu “Về computer thì tôi rất… I Tờ”. Với một số người, thậm chí I Tờ còn là cách đọc của chữ tắt IT (information technology – công nghệ thông tin) nên câu thí dụ vừa nêu còn có thể đổi là “Về I Tờ thì tôi rất… I Tờ” hoặc “Về Ai Ti thì tôi rất… I Tờ”. Tiếng Việt ngày nay càng ngày càng rắc rối!
Nhân nói về công nghệ thông tin, xin bàn thêm một chút về ký hiệu @, tiếng Anh gọi là “At sign” (dấu At). Khởi thủy, @ thường được dùng trong thương mại và kế toán để chỉ đơn giá “each at”. Chẳng hạn như “10 apples @ 10 pennies” (10 apples each at 10 pennies – 10 quả táo, mỗi quả 10 xu).
Bill Gates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, xuất bản một cuốn sách mang tựa đề trong có ký hiệu @ rất ‘thời thượng’ vào thời kỳ bùng nổ Internet: “Business @ the Speed of Thought” (tạm dịch là Kinh doanh theo tốc độ của tư duy).
Nhu cầu về máy tính đòi hỏi cần phải có một ký tự đặc biệt để tách biệt tên người sử dụng máy tính với tên miền trong hệ thống mạng nên vào năm 1972, chuyên gia lập trình Ray Tomlison chọn ký hiệu @ để biểu thị địa chỉ trên e-mail, chẳng hạn như abc@yahoo.com…
Trong khi các mẫu tự trong hệ thống chữ La Tinh ABC khi phát âm mỗi nước đọc một khác thì ký hiệu @ mỗi quốc gia đọc một kiểu! Người Đức gọi @ là “affenschwanzhayapenstaartje” (đuôi khỉ), Ý gọi là “chiocciola” (ốc sên), Hungari là “kukak” (con sâu), dân Nga gọi là “sobaka (собака)” (con chó), sang đến Hy Lạp trở thành con vịt “papaki”, Thổ Nhĩ Kỳ lại biến thành “bông hồng”, …
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Người ta gọi @ bằng nhiều tên: “a móc”, “a vòng”, “a còng”… Gần đây lại còn có những tên như “a đuôi” hoặc… “lỗ tai heo”! Theo cách gọi này, khi có ai hỏi địa chỉ e-mail, bạn có thể tỉnh bơ trả lời: “Địa chỉ e-mail của tớ là Nguyễn Văn Nhậu, lỗ tai heo, da-hu chấm com”.
Trong khi miền Bắc trung thành với cách đọc A, Bờ, Cờ từ thời Bình dân Học vụ thì ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, khi trẻ bước vào lớp Năm (tương đương với lớp 1 ngày nay) được dạy đánh vần các mẫu tự ABC theo cách phát âm A, Bê, Xê. Sự thay đổi sau năm 1975 được mệnh danh là cải cách hoặc cải tiến giáo dục.
Thế nhưng, sau 1975, khi bắt đầu học toán, các em làm quen với một hình chữ nhật có 4 góc ABCD lại được thầy cô đọc là A, Bê, Xê, Dê chứ không còn là A, Bờ, Cờ, Dờ như cách đọc ở lớp vỡ lòng. Nếu phụ huynh thắc mắc, thầy cô trả lời rất đơn giản: “Trên hướng dẫn như thế!”.
Bản thân tôi đã được nghe cháu ngoại đọc báo và không thể hiểu nổi Bộ Lờ Đờ Tờ Bờ Xờ Hờ là cái gì. Mãi cho đến lúc nhìn vào mặt chữ in trên tờ báo mới giật mình vì đó là những chữ viết tắt: Bộ LĐ-TB-XH (Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội)! Các bậc ông bà, cha mẹ không dám sửa vì con cháu luôn có điệp khúc: “Cô giáo bảo thế!”.
Ngày xưa, ngay từ thời niên thiếu, tôi đã nghe câu nói:
ABC
Không có nhà
Tôi không bàn đến việc không có nhà nên phải đi ở nhà thuê mà chỉ đề cập đến cách đọc những mẫu tự ABC. Câu trên phải đọc là “A, Bê, Xê” cho hợp vần với “Đi ở thuê”. Sẽ là điều trái cẳng ngỗng khi đọc là “A, Bờ, Cờ”, hoàn toàn không hợp với vần của câu thứ ba: “A, Bờ, Cờ – Không có nhà – Đi ở thuê”!
Như vậy, ta có 2 cách phát âm các mẫu tự, cách nào cũng đúng nhưng còn tùy thuộc vào ngữ cảnh. Có điều, dù đọc theo trường phái A, Bê, Xê hay A, Bờ, Cờ chỉ khác nhau ở các phụ âm như B, C, D… còn những nguyên âm như A, O, E, I, Y… hoàn toàn không có sự khác biệt.
Ngược dòng lịch sử, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908–1996) là một trong những người có công lớn trong việc truyền bá quốc ngữ qua Phong trào Bình dân Học vụ trước giai đoạn tản cư vào cuối năm 1946. Trong bài viết Nhớ lại Hội truyền bá Quốc Ngữ, nhân kỷ niệm 50 năm đăng trên tập san Đoàn Kết (số 405-406, tháng 9 và 10 năm 1988, xuất bản tại Paris), Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn có nhắc đến “những chữ dễ viết cho những ngón tay chưa từng cầm bút… Vì lẽ đó tôi đã bắt đầu sách bằng hai chữ I, Tờ”.
Trong cuốn “I, Tờ”, Giáo sư Hãn đã đưa ra cách phát âm các mẫu tự B, C, D, Đ… bằngBờ, Cờ, Dờ, Đờ… và các phụ âm kép NG, PH, TH, TR là Ngờ, Phờ, Thờ, Trờ… Chẳng hạn, để đánh vần chữ Ba, theo Giáo sư Hãn, sẽ là Bờ A Ba. Cách đánh vần này sẽ dễ dàng hơn Bê A Ba. Trong trường hợp phụ âm kép như chữ Thơ sẽ đánh vần là Thờ Ơ Thơ thay vì Tê Hát Ơ Thơ. Nói chung, phương pháp đánh vần của Giáo sư rất đơn giản nhưng lại rất thích hợp, nhất là đối với những người lớn tuổi muốn học chữ quốc ngữ. Bên cạnh đó là những vần thơ giúp người học dễ nhớ như:
I Tờ hai móc giống nhau,
I ngắn có chấm, Tờ dài có ngang
O tròn như quả trứng gà,
Ô thời đội nón, Ơ thời có râu
Huyền ngang, Sắc dọc, Nặng tròn,
Hỏi lom khom đứng, Ngã thời nằm ngang
Vào thập niên 50 lại có bài hát Cô Tú của Long Châu khá phổ biến vào thời đó để cổ xúy cho việc học chữ quốc ngữ với những lời ca như sau:
Ai về chợ huyện là huyện Thanh Vân,
Hỏi thăm, hỏi thăm Cô Tú đánh vần được chưa?
Đánh vần năm ngoái, năm xưa,
Năm nay quên hết nên chưa biết gì.
Lưng trời tiếng sáo vu vi,
Vẳng nghe ai học chữ i, chữ tờ.
Sách i tờ Pháp không cho học,
Liệu cô mình đã đọc được chưa?
Đôi bên bác mẹ cùng già,
Lấy cô hay chữ để mà cậy trông.
Mùa hè cho chí mùa đông,
Ruộng vườn thóc lúa tính thông cô chẳng nhầm.
Nụ tầm xuân còn đương phong nhuỵ,
Xin cô mình đừng phí ngày xanh.
Bình dân Học vụ lập thành,
Cô nên tới đó học hành cho thông
Từ đó, ta có cách dạy đánh vần chữ quốc ngữ theo phương pháp I Tờ, một thuật ngữ gắn liền với Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn. Ông là một học giả đa tài trong nhiều lãnh vực: giáo sư toán học, kỹ sư, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục. Ông cũng là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên (*).
Ở Việt Nam ngày nay, chữ “I Tờ” khá phổ biến nhưng không còn mang ý nghĩa ban đầu của Giáo sư Hãn. I Tờ hoặc I Tờ Rít là một tĩnh từ chỉ sự dốt nát kiểu lớp ba trường lànghay không chuyên môn như trong câu “Về computer thì tôi rất… I Tờ”. Với một số người, thậm chí I Tờ còn là cách đọc của chữ tắt IT (information technology – công nghệ thông tin) nên câu thí dụ vừa nêu còn có thể đổi là “Về I Tờ thì tôi rất… I Tờ” hoặc “Về Ai Ti thì tôi rất… I Tờ”. Tiếng Việt ngày nay càng ngày càng rắc rối!
Nhân nói về công nghệ thông tin, xin bàn thêm một chút về ký hiệu @, tiếng Anh gọi là “At sign” (dấu At). Khởi thủy, @ thường được dùng trong thương mại và kế toán để chỉ đơn giá “each at”. Chẳng hạn như “10 apples @ 10 pennies” (10 apples each at 10 pennies – 10 quả táo, mỗi quả 10 xu).
Bill Gates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, xuất bản một cuốn sách mang tựa đề trong có ký hiệu @ rất ‘thời thượng’ vào thời kỳ bùng nổ Internet: “Business @ the Speed of Thought” (tạm dịch là Kinh doanh theo tốc độ của tư duy).
Nhu cầu về máy tính đòi hỏi cần phải có một ký tự đặc biệt để tách biệt tên người sử dụng máy tính với tên miền trong hệ thống mạng nên vào năm 1972, chuyên gia lập trình Ray Tomlison chọn ký hiệu @ để biểu thị địa chỉ trên e-mail, chẳng hạn như abc@yahoo.com…
Trong khi các mẫu tự trong hệ thống chữ La Tinh ABC khi phát âm mỗi nước đọc một khác thì ký hiệu @ mỗi quốc gia đọc một kiểu! Người Đức gọi @ là “affenschwanzhayapenstaartje” (đuôi khỉ), Ý gọi là “chiocciola” (ốc sên), Hungari là “kukak” (con sâu), dân Nga gọi là “sobaka (собака)” (con chó), sang đến Hy Lạp trở thành con vịt “papaki”, Thổ Nhĩ Kỳ lại biến thành “bông hồng”, …
Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Người ta gọi @ bằng nhiều tên: “a móc”, “a vòng”, “a còng”… Gần đây lại còn có những tên như “a đuôi” hoặc… “lỗ tai heo”! Theo cách gọi này, khi có ai hỏi địa chỉ e-mail, bạn có thể tỉnh bơ trả lời: “Địa chỉ e-mail của tớ là Nguyễn Văn Nhậu, lỗ tai heo, da-hu chấm com”.
Trong khi miền Bắc trung thành với cách đọc A, Bờ, Cờ từ thời Bình dân Học vụ thì ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, khi trẻ bước vào lớp Năm (tương đương với lớp 1 ngày nay) được dạy đánh vần các mẫu tự ABC theo cách phát âm A, Bê, Xê. Sự thay đổi sau năm 1975 được mệnh danh là cải cách hoặc cải tiến giáo dục.
Thế nhưng, sau 1975, khi bắt đầu học toán, các em làm quen với một hình chữ nhật có 4 góc ABCD lại được thầy cô đọc là A, Bê, Xê, Dê chứ không còn là A, Bờ, Cờ, Dờ như cách đọc ở lớp vỡ lòng. Nếu phụ huynh thắc mắc, thầy cô trả lời rất đơn giản: “Trên hướng dẫn như thế!”.
Bản thân tôi đã được nghe cháu ngoại đọc báo và không thể hiểu nổi Bộ Lờ Đờ Tờ Bờ Xờ Hờ là cái gì. Mãi cho đến lúc nhìn vào mặt chữ in trên tờ báo mới giật mình vì đó là những chữ viết tắt: Bộ LĐ-TB-XH (Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội)! Các bậc ông bà, cha mẹ không dám sửa vì con cháu luôn có điệp khúc: “Cô giáo bảo thế!”.
Về ngôn ngữ, ngoài xã hội cũng ‘loạn’ không kém gì môi trường giáo dục. Chẳng hạn như khi nhóm G7, G20 nhóm họp, đài truyền hình trung ương (VTV) đưa tin qua tên gọi các nhóm này là Gờ Bảy, Gờ Hai Mươi… trong thi đó bản tin của đài Sài Gòn (HTV) vẫn trung thành với cách phát âm cũ: Giê Bảy, Giê Hai Mươi!
Xem quảng cáo trên TV về việc cài đặt GPRS trên điện thoại di động thì phát thanh viên miền Bắc đọc là Gờ Pê Rờ Ét còn trong Nam lại phát âm là Giê Pê Rờ Ét… (Nếu trung thành với cách phát âm cũ ABC thì phải là Giê Pê E Rờ Ét chứ). Xem đá bóng thì có độiMờ U ở miền Bắc và Em U ở trong Nam dù đó chỉ là một đội Manchester United (MU) tận bên Anh!
Trên đây là chuyện đọc, nhưng chuyện viết cũng nhiêu khê không kém. Ngày nay, người ta có khuynh hướng biến chữ Y thành I. Theo cách này, công ty sẽ thành công ti, kỹ thuậtbiến thành kĩ thuật nhưng không biết đến bao giờ ta sẽ có Ti I tế thay cho Ty Y tế? Tại miền Nam ngày xưa cũng có hiện tượng đổi Y thành I, nhưng trong trường hợp nữ ca sĩThanh Thúy chắc chẳng ai nỡ nhẫn tâm đổi tên người đẹp thành Thanh Thúi!
Xem ra cách viết đúng chính tả vẫn còn là một vấn đề nhức nhối đối với các nhà ngôn ngữ học. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các Dân tộc bị Áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường Kách Mệnh.
Đường Kách Mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Trong phạm vi ngôn ngữ, chúng ta chỉ thắc mắc tại sao viết Kách mệnh mà không phải là Cách mệnh hay Cách mạng?
Có người giải thích vào thời điểm thập niên 20, hệ thống chính tả của Việt Nam còn đang trong thời kỳ sơ khai, chưa có những quy định chặt chẽ nên người viết có thể tùy tiện như trường hợp Kách mệnh hoặc Nhân zân, thay vì Nhân dân, hay Giải fóng thay vìGiải phóng…
Tuy nhiên, mặc dù ngày nay tiếng Việt đã được hoàn thiện phần nào nhưng đâu đó vẫn còn những trường hợp tùy tiện trong cách viết. Chẳng hạn như tên của một số địa phương, vẫn chưa có sự thống nhất. Tại miền Nam, tỉnh Đắc Lắc lại còn có tên Dak Lakvà Đắc Nông lại biến thành Đắk Nông. Miền thượng du Bắc Việt, tỉnh Bắc Cạn được viết theo ‘kiểu mới’ là Bắc Kạn.
Không biết đến bao giờ Bình Ca (một địa danh với chiến công hiển hách trên dòng sông Lô thời kháng chiến trong bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ… Văn Kao) sẽ được đổi thànhBình Ka? Nếu cái đà đổi C thành K vẫn tiếp diễn thì một ngày nào đó Củ Chi, ‘đất thép thành đồng’, sẽ có tên mới là Kủ Chi; Cần Thơ ‘gạo trắng nước trong’ sẽ mang tênKần Thơ và Cao Bằng mạn ngược sẽ biến thành Kao Bằng!
Phải chăng vì C và K, nếu phát âm theo cách A, Bờ, Cờ, chỉ có một cách đọc duy nhất là Cờ cho cả hai mẫu tự nên ta có thể viết tùy tiện?
===
Chú thích:
(*): Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đó cũng là lý do ngày nay tại Hà Tĩnh có trường trung học mang tên ông.
Năm 1926, ông đậu bằng Thành Chung, rồi ra Hà Nội học trung học ở trường Bưởi. Sau đó một năm, ông lại chuyển sang học chuyên Toán ở Lycée Albert Sarraut. Năm 1928, ông đỗ thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận học bổng của chính phủ Đông Dương sang Pháp học dự bị để thi vào các trường lớn.
Năm 1930, ông đỗ vào trường École Normale Supérieure và Trường Bách khoa Paris. Ông chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.
Năm 1932-1934: Ông vào học École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris). Năm 1934: Trở về Việt Nam, 4 tháng sau đó sang Pháp. Từ năm 1934 đến năm 1936 trở lại Pháp; đậu cử nhân toán 1935, và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).
Từ năm 1936 đến năm 1939, ông trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trong thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học. Từ năm 1939 đến năm 1944, vì chiến tranh trường Bưởi phải rời vào Thanh Hóa. Tại đây, ông tìm thấy những tư liệu lịch sử về La Sơn Phu Tử và vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt.
Năm 1942, ông cho xuất bản Danh từ khoa học. Năm 1943, Đại học Khoa học được thành lập tại Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn được mời dạy môn cơ học. Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiền về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam. Ngày 17/4/1945, ông tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật.
Từ ngày 20/4 đến ngày 20/6/1945, với chức bộ trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học. Áp dụng việc học và thi Tú tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng.
Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, ông trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội.
Ông sang Paris năm 1951 và ở luôn bên Pháp. Trong thời kỳ 1951-1954 ông đã giúp Thư viện Quốc gia Pháp và các thư viện Dòng Tên ở Ý và Tòa Thánh Vatican làm thư mục về sách Việt. Ông vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, viết các bài gửi các báo Sử Địa (Sài Gòn, 1966-1974), tập san Khoa học – Xã hội (Paris, 1976-1987), Đoàn Kết (Paris, 1976-1981), Diễn Đàn (Paris 1991-1994).
Ngày 21/7/1992, ông thành lập tại Pháp một hội văn hóa có tên là Hội Văn hóa Giáo dụcCam Tuyền do ông làm chủ tịch. Hội có tôn chỉ và mục đích bảo vệ và phát huy văn hóa, giáo dục; nhất là bảo tồn văn hóa cổ Việt Nam tại Pháp và ở các quốc gia Tây phương. Ngoài ra, tại Paris ông đã hoàn tất công trình lớn về Đoạn trường tân thanh có tên “Nghiên cứu về Kiều” từ hơn 50 năm nay.
Ông mất lúc 7 giờ 45 ngày 10/3/1996 tại bệnh viện Orsay, Paris. Thi hài ông được hỏa táng chiều ngày 14/3/1996 tại nghĩa trang L’Orme des Moineaux, Les Ulis, Pháp.
Xem quảng cáo trên TV về việc cài đặt GPRS trên điện thoại di động thì phát thanh viên miền Bắc đọc là Gờ Pê Rờ Ét còn trong Nam lại phát âm là Giê Pê Rờ Ét… (Nếu trung thành với cách phát âm cũ ABC thì phải là Giê Pê E Rờ Ét chứ). Xem đá bóng thì có độiMờ U ở miền Bắc và Em U ở trong Nam dù đó chỉ là một đội Manchester United (MU) tận bên Anh!
Trên đây là chuyện đọc, nhưng chuyện viết cũng nhiêu khê không kém. Ngày nay, người ta có khuynh hướng biến chữ Y thành I. Theo cách này, công ty sẽ thành công ti, kỹ thuậtbiến thành kĩ thuật nhưng không biết đến bao giờ ta sẽ có Ti I tế thay cho Ty Y tế? Tại miền Nam ngày xưa cũng có hiện tượng đổi Y thành I, nhưng trong trường hợp nữ ca sĩThanh Thúy chắc chẳng ai nỡ nhẫn tâm đổi tên người đẹp thành Thanh Thúi!
Xem ra cách viết đúng chính tả vẫn còn là một vấn đề nhức nhối đối với các nhà ngôn ngữ học. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các Dân tộc bị Áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường Kách Mệnh.
Đường Kách Mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Trong phạm vi ngôn ngữ, chúng ta chỉ thắc mắc tại sao viết Kách mệnh mà không phải là Cách mệnh hay Cách mạng?
Có người giải thích vào thời điểm thập niên 20, hệ thống chính tả của Việt Nam còn đang trong thời kỳ sơ khai, chưa có những quy định chặt chẽ nên người viết có thể tùy tiện như trường hợp Kách mệnh hoặc Nhân zân, thay vì Nhân dân, hay Giải fóng thay vìGiải phóng…
Tuy nhiên, mặc dù ngày nay tiếng Việt đã được hoàn thiện phần nào nhưng đâu đó vẫn còn những trường hợp tùy tiện trong cách viết. Chẳng hạn như tên của một số địa phương, vẫn chưa có sự thống nhất. Tại miền Nam, tỉnh Đắc Lắc lại còn có tên Dak Lakvà Đắc Nông lại biến thành Đắk Nông. Miền thượng du Bắc Việt, tỉnh Bắc Cạn được viết theo ‘kiểu mới’ là Bắc Kạn.
Không biết đến bao giờ Bình Ca (một địa danh với chiến công hiển hách trên dòng sông Lô thời kháng chiến trong bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ… Văn Kao) sẽ được đổi thànhBình Ka? Nếu cái đà đổi C thành K vẫn tiếp diễn thì một ngày nào đó Củ Chi, ‘đất thép thành đồng’, sẽ có tên mới là Kủ Chi; Cần Thơ ‘gạo trắng nước trong’ sẽ mang tênKần Thơ và Cao Bằng mạn ngược sẽ biến thành Kao Bằng!
Phải chăng vì C và K, nếu phát âm theo cách A, Bờ, Cờ, chỉ có một cách đọc duy nhất là Cờ cho cả hai mẫu tự nên ta có thể viết tùy tiện?
===
Chú thích:
(*): Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đó cũng là lý do ngày nay tại Hà Tĩnh có trường trung học mang tên ông.
Năm 1926, ông đậu bằng Thành Chung, rồi ra Hà Nội học trung học ở trường Bưởi. Sau đó một năm, ông lại chuyển sang học chuyên Toán ở Lycée Albert Sarraut. Năm 1928, ông đỗ thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận học bổng của chính phủ Đông Dương sang Pháp học dự bị để thi vào các trường lớn.
Năm 1930, ông đỗ vào trường École Normale Supérieure và Trường Bách khoa Paris. Ông chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.
Năm 1932-1934: Ông vào học École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris). Năm 1934: Trở về Việt Nam, 4 tháng sau đó sang Pháp. Từ năm 1934 đến năm 1936 trở lại Pháp; đậu cử nhân toán 1935, và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).
Từ năm 1936 đến năm 1939, ông trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trong thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học. Từ năm 1939 đến năm 1944, vì chiến tranh trường Bưởi phải rời vào Thanh Hóa. Tại đây, ông tìm thấy những tư liệu lịch sử về La Sơn Phu Tử và vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt.
Năm 1942, ông cho xuất bản Danh từ khoa học. Năm 1943, Đại học Khoa học được thành lập tại Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn được mời dạy môn cơ học. Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiền về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam. Ngày 17/4/1945, ông tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục – Mỹ thuật.
Từ ngày 20/4 đến ngày 20/6/1945, với chức bộ trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học. Áp dụng việc học và thi Tú tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng.
Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, ông trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội.
Ông sang Paris năm 1951 và ở luôn bên Pháp. Trong thời kỳ 1951-1954 ông đã giúp Thư viện Quốc gia Pháp và các thư viện Dòng Tên ở Ý và Tòa Thánh Vatican làm thư mục về sách Việt. Ông vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, viết các bài gửi các báo Sử Địa (Sài Gòn, 1966-1974), tập san Khoa học – Xã hội (Paris, 1976-1987), Đoàn Kết (Paris, 1976-1981), Diễn Đàn (Paris 1991-1994).
Ngày 21/7/1992, ông thành lập tại Pháp một hội văn hóa có tên là Hội Văn hóa Giáo dụcCam Tuyền do ông làm chủ tịch. Hội có tôn chỉ và mục đích bảo vệ và phát huy văn hóa, giáo dục; nhất là bảo tồn văn hóa cổ Việt Nam tại Pháp và ở các quốc gia Tây phương. Ngoài ra, tại Paris ông đã hoàn tất công trình lớn về Đoạn trường tân thanh có tên “Nghiên cứu về Kiều” từ hơn 50 năm nay.
Ông mất lúc 7 giờ 45 ngày 10/3/1996 tại bệnh viện Orsay, Paris. Thi hài ông được hỏa táng chiều ngày 14/3/1996 tại nghĩa trang L’Orme des Moineaux, Les Ulis, Pháp.
Nguyen Ngoc Chinh
=> Tiếng Việt tinh túy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét