- BÁT QUÁI HỢP HÔN

CHẲNG CẦN THẦY BÀ - CHỈ 5' CHIÊM NGHIỆM, RÕ RÀNG HỢP KHẮC

=> CHỌN VỢ - LẤY CHỒNG CẦN DÒ THEO CÁC BƯỚC: I; II; III   

=> CAO HƠN (IV...) LÀ PHỐI CUNG NGÀY & NGÀY THEO DỊCH LÝ, OR THEO BÁT TỰ.
  
(Người Phạm Cô Thần - Quả Tú, Tháng Phạm... Cần Tu Tâm Dưỡng Tánh, Chú Tâm Làm Nhiều Việc Thiện Để Hóa Giải). 

Những cặp Vợ Chồng Lỡ Có Cung... Xấu, Nên Chọn Năm Sinh Con Có Cung Sinh Khí hoặc Thiên Y... Hợp Với Cha Mẹ Để Hóa Giải một phần (Không đạt 100% đâu nhé). 

- Các Cung Nam Nữ tác hợp ắt phạm Bát san Tuyệt mạng gồm có: Càn, Ly, Đoài, Chấn, Khôn, Cấn, Tốn đều là Âm khắc Dương, không thể toàn vẹn vợ chồng viên mãn.

- Các Cung Càn- Chấn, Tốn- Khôn, Khảm- Cấn, Đoài- Ly mà Tử vi xác nhận là Dương khắc Dương, Âm khắc Âm nên gọi Bát san Ngũ quỷ hay Bát san Giao chiến là chủ về hung kỵ bất tương.

- Các Cung Càn- Khảm, Cấn- Chấn, Tốn- Đoài, Khôn- Ly đều chủ về Lục sát ắt vợ chồng lấy nhau phải gặp nhiều nỗi lo âu, khốn đốn trong đời.

- Các Cung Càn-Tốn, Khảm-Đoài, Cấn-Ly, Khôn-Chấn đem so với Ngũ hành thì thuộc Kim, Mộc và Thổ, nếu kết nạp vợ chồng với Nam Nữ mang những tuổi Ngọ-Sửu, Tỵ-Dậu sẽ không tránh khỏi vòng hoạ hại mà tương lai duyên nợ khó bền, đời sống vợ chồng quanh năm suốt tháng cứ phải lận đận lao đao dồn dập, nếu tránh được tai ách ngục hình thì cũng bị bệnh tật đeo mang dai dẳng, gia cảnh lần hồi suy sụp, tiền bạc tài sản tiêu hao đưa đến nhà tan cửa nát mà vợ chồng cũng sớm hay muộn dời đổi, trong khi con cái trưởng thành ảnh hưởng hứng chịu cảnh khốn đốn.

BÁT SAN GIAO CHIẾN
SAN tức sơn. GIAO CHIẾN là đánh nhau. Tám sơn hay tám cung không thể cưới gả nhau được vì là Đại hung, tuy không đến nổi chết nhưng cứ rầy rà nhau luôn, nếu tuổi khắc và mạng khắc lại càng độc hại hơn nữa, có thể đi đến chỗ tan rã.
Tám cung đó như sau:
Càn-Chấn, Cấn-Khảm
Tốn-Khôn, Ly-Đoài
---o0o---

BÁT SAN TUYỆT MẠNG
Bát san tuyệt mạng còn nặng hơn bát san giao chiến nhiều, vì nó có thể đưa đến sự chết chóc, nếu tuổi khắc và cung khắc nữa thì những điều tai họa coi như đã được định sẳn.
Tám cung Tuyệt mạng người ta đã đặt thành mấy câu văn vần cho dễ nhớ như sau:
Bà CÀN đi chợ phù LY; CÀN kỵ LY
Mua con cá CẤN làm chi TỐN tiền; CẤN kỵ TỐN
Ông KHẢM lại học làm KHÔN; KHẢM kỵ KHÔN
Gánh nước non ĐOÀI té CHẤN gảy lưng: ĐOÀI kỵ CHẤN

I. PHỐI CUNG SANH (Bát quái năm sinh, ngày sinh) 
(Chú Ý: Phải Kết Hợp Cung Sanh Với Cung Sanh Trong Lục Thập Hoa Giáp, Không Sử Dụng Cung Phi (Cung Phi Là Cung Trạch)
(Xem Tại Đây: - Cung Sanh, Cung Phi tức cung trạch)

 

1- Nam cung Càn + nữ Càn: (Thuần Càn) Lưỡng Kiền phục vị tốt vừa thôi / Sợ lúc tuổi già chẳng đủ đôi /
Con cháu trung bình không bạo phát / Ruộng vườn nhà cửa lập hai nơi.
Không mấy tốt: Vợ chồng thiếu may mắn.
Chồng Kiền lấy vợ cung Kiền (Phục Vị) / Bậc trung được số giàu sang tuổi già /
Vợ chồng bạch thủ thành gia / Trung niên gây dựng cửa nhà tạm vui / Lưỡng Thủy triền nguyên phước đức sanh / Chăn nuôi lục súc nghiệp không thành /Dâu hiền rể thảo nên khoa cử / Thôn ấp ngợi khen lộc sẵn dành.
=>* : Hôn nhân: giữa chừng không thành, nữ thì tốt

- Càn + Khảm: (Thiên Thủy Tụng) Lục Sát: Tang tóc phiền lụy.
Chồng Kiền lấy vợ cung Khảm / Lục Sát ắt phu thê buồn thảm! /Kim cài dở dang nửa đời / Duyên nợ đổi dời tương tư ly tán.
=>* Hôn nhân: khó có duyên phận.

- Càn +Cấn: (Thiên sơn độn) Cung vĩ trường sanh được hợp hòa / Giàu sang nhờ cậy có tay bà / 
Chứa nhiều phúc đức cho con cháu / Sung sướng cùng nhau đến tuổi già.
Phước Đức: Thật tốt, trăm năm thỏa nguyện.
Chồng Kiền lấy vợ cung Cấn (Thiên Y) / May mắn cuộc đời vượng tài phấn chấn /Tình yêu đượm lửa hương nồng / Rể thảo dâu hiền an nhàn hậu vận.
=> Hôn nhân: khó thành lương duyên.

- Càn + Chấn: (Thiên lôi vô vọng) Khẩu thiệt hơn thua có đấu tranh / Vợ chồng ngũ quỷ họa tương sanh /Cửa nhà ruộng đất rồi tiêu sạch / Tử biệt sanh ly khó tạo thành.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Bất lợi, xào xáo.
Chồng Kiền lấy vợ cung Chấn / Trước sau bất tường nợ duyên lận đận /Tâm lý chồng vợ không hòa / Khiến nên sanh kế quanh năm túng bần.
=> Hôn nhân: không phải lương duyên nên khó thành.

- Kiền +Tốn: (Thiên Phong Cẩu) Hai cung khắc rõ ràng / Cưỡng cầu kết hợp thế sao an? /Nếu không họa hại liên miên tới / Cũng sẽ chia ly kẻ một đàng.
Họa Hại - rất xấu: Bất tường bệnh tật. 
Chồng Kiền lấy vợ cung Tốn / Trước hợp sau lìa vô cùng khốn đốn /Con cái trưởng thành cút côi / Hình ngục oan khiên vợ chồng thương tổn!
=> Hôn nhân: có thể thành, nhưng không tốt đẹp.

- Kiền + Ly (Thiên Hỏa Đồng Nhân) tuyệt mạng ở sao yên? / Sanh nở nguy nan lắm lụy phiền / Tử biệt sanh ly như đợi sẵn / Khó, nghèo đắc thọ, phu quý thiên.
Tuyệt Mệnh- rất xấu: Gẫy cánh nửa đường.
Chồng Kiền lấy vợ cung Ly / Nợ duyên cầm chắc sầu bi khóc thầm /Ái ân lỡ nhịp sắc cầm / Mới hay căn kiếp có phần hẩm hiu.
=> Hôn nhân: thành lương duyên*.

- Kiền Khôn (Thiên Địa Bĩ) Thiên địa Càn Khôn hợp một nhà / Vận hành sanh khí phát tam đa / Nhiều tài nhiều lộc nhiều con cái / Phát đạt giầu sang suốt đến già.
Sanh Khí Thuận hòa, phát đạt.
Chồng Kiền lấy vợ cung Khôn (Phúc Đức) / Số được phước đức trường tồn ấm no /Lộc tài như nước tràn vô / Cửa nhà đồ sộ quy mô ruộng vườn ...
=> Hôn nhân: khó thành lương duyên*.

- Càn + Đoài: (Thiên Trạch Lý) Vàng thoi vàng khối lại sanh vàng / Phước Lộc Diên Niên tuổi thọ khang /Con cháu nên danh hưng nghiệp tổ / Kiền Đoài phối hợp hẳn giầu sang.
Diên Niên: Tương hợp giai ngẫu.
Chồng Kiền lấy vợ cung Đoài / Ấm êm gia đạo trong ngoài yên vui /Nợ duyên gắn bó trọn đời / Thế vinh tử quý số người giầu sang ...
=> Hôn nhân: tưởng thuận lợi, song lại khó thành*.

2- Nam Khảm + Càn: (Thủy Thiên Nhu) Đăng hóa Khảm Kiền số nghịch sanh / Lương duyên phú quý sớm nên danh / Có điều trai phải nhường cung vợ / Nể mặt nhau cho mọi sự thành.
Lục Sát: Tai bay họa gởi.
Chồng Khảm lấy vợ cung Kiền / Tang thương từ thuở hai đàng hiệp hôn /Buồn cho duyên nợ long đong / Bất hòa tâm lý vợ chồng đảo điên.
=> Hôn nhân: chờ đợi sẽ thành.

- Lưỡng Khảm (Quẻ Thuần Khảm) trùng cung cũng tạm nhàn / Cưới nhau sớm phải chịu trùng tang /Nên bằng biệt lập xa cha mẹ / Con cháu rồi ra cũng có đàn.
Không mấy tốt: Gặp nhiều trắc trở.  
Chồng Khảm lấy vợ cung Khảm (Phục Vị) / Bình thường cuộc sống thắm đằm nợ duyên / An bài gia đạo định tiền / Cơm no áo ấm keo sơn một đời.
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên.

- Khảm + Cấn: (Thủy Sơn Kiển) Hình tương số định rồi / Lấy nhau chỉ để lụy nhau thôi / Cửa nhà xơ xác thân cơ cực / Ngũ Quỷ đeo theo mãi báo đời.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Xáo trộn, bất hòa.
Chồng Khảm lấy vợ cung Cấn / Giầu có mấy lần rồi cũng phá tan /Nợ duyên ắt phải lỡ làng / Cái con khôn lớn điếm đàng đãng du ...
=> Hôn nhân: khó thành.

- Khảm + Chấn: (Thủy lôi truân: có sự tranh chấp lâu dài) Nước gặp gió to dậy sóng lên / Thiên Y Chấn Khảm số làm nên /Cháu con đông đúc tài miên thạnh / Hoè quế y quan rực trước thềm.
Thiên Y: Duyên nợ lâu dài.
Chồng Khảm lấy vợ cung Chấn / Quan lộc uy quyền đời sống mãn sung /Thê vinh tử quý rõ ràng / Duyên nợ vợ chồng bạc tóc mồi da.
=> Hôn nhân: có sự tranh chấp lâu dài.

- Khảm Tốn:(Thủy Phong Tỉnh) nên duyên phước lớn thay / Thiên Y quan lộc hưởng lâu dài / Cửa nhà khang lệ, chăn nuôi vượng / Con cái thông minh đủ trí tài.
Sanh Khí: Tài lộc hòa hợp.
Chồng Khảm lấy vợ cung Tốn (Sanh Khí) / Mạng thọ duyên bề vui sống ổn an /
Số không sang nhưng no lành / Gia đạo thuận hòa, cháu thành con tốt.
=> Hôn nhân: có thể thành.

- Khảm Ly (Thủy Hỏa Ký Tế) thủy hỏa chớ nên gần / Phước đức dầu nhiều cũng cách phân /Nếu số xa quê mà gặp gỡ / Cũng cho là tạm sống thanh bần.
Phước Đức: An bài duyên nợ.
Chồng Khảm lấy vợ cung Ly / Thủy chung như nhứt ai bì phong lưu /Vợ chồng có số sang giầu / Hưởng ơn phụ ấm trước sau an nhàn ...
=> Hôn nhân: bình thường.

- Khảm Khôn (Thủy Địa Tỷ) tuyệt mạng biết làm sao? / Dầu bị oan gia tự thưở nào /Kết hợp cũng thành sanh tử biệt / Cháu con nối bưóc xuống âm tào.
Tuyệt mạng - rất xấu: Chết chóc không ngờ.
Chồng Khảm lấy vợ cung Khôn / Lo âu mắc phải dập dồn ốm đau /Bạc tiền hết biệt ly sầu / Không chồng thì vợ cũng rầu cõi âm.
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên, hãy bỏ qua dư luận mà đến với nhau.

- Khảm + Đoài: (Thủy trạch tiết) Thủy Kim Họa Tai- rất xấu: Tật bệnh gian khổ.
Chồng Khảm lấy vợ cung Đoài / Ấm êm bỗng chốc ách tai buộc ràng /Số phần chồng vợ đeo mang / Suốt đời khổ hận sầu than đêm ngày!
=>Hôn nhân: phải qua một thời gian mối thành lương duyên.

3- Nam Cấn + Càn:(Sơn thiên đại súc) Thủy năng dưỡng mộc vợ nuôi chồng / Bởi mạng cung cao bà hiếp ông /Con cháu đầy nhà nhờ phước đức / Rể hiền dâu thảo rạng gia phong.
Thiên Y: Trong ấm ngoài êm.
Chồng Cấn lấy vợ cung Kiền / Phu thê dẫu có nghèo hèn không lo /Trung niên được của trời cho / Sau này sung mãn quy mô ruộng vườn.
=> Hôn nhân: có thể đến hôn nhân nhưng tốn thời gian. Đề phòng giữa chừng đoạn tuyệt.

 - Cấn + Khảm: Giao hoa sự khó hòa / Biến hình Ngũ Quỷ họa không xa /Tuy sanh mà khắc vì phương vị / Con cháu suy vi hại thất gia.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Cửa nhà bại hoại.
Chồng Cấn lấy vợ cung Khảm / Duyên nợ nửa đời ảm đạm triền miên /Số trời ắt đổi hai miền / Nếu không hoạn nạn khó phiền tránh xa.
=> Hôn nhân: khó thành.

- Cấn + Cấn: Duyên hòa lưỡng Cấn thật gian nan / Một khúc tương tư mấy nhịp đàn /Nghèo khó gần nhau, giàu cách trở / Xa quê hòa hiệp số thanh nhàn.
Phục Vị: Xấu nhưng không lo.
Chồng Cấn lấy vợ cung Cấn / Số được hưởng thê hòa phu thuận /Phong lưu nhàn hạ bậc trung / Một đời tình ái nợ duyên an phần.
=> Hôn nhân: không có duyên phận với nhau.

- Cấn + Chấn: Lục Sát tương hình kết lứa đôi / Công danh sự nghiệp nước mây trôi /Mẹ cha con cháu đều suy bại / Khốn khổ bi ai suốt cả đời.
Lục Sát: Danh nghiệp sa sút.
Chồng Cấn lấy vợ cung Chấn / Sản nghiệp sẵn sàng tẩu tán lần hồi /Nghịch thường tâm lý phụ phu / Trước sau hạnh phúc gia đình nát hư.
=> Hôn nhân: khó thành.

 - Cấn + Tốn: Hai cung Tuyệt Mạng chớ nên gần / Cưỡng ép rồi ra họa hại thân /
Bệnh hoạn liên miên tiền của sạch / Chồng bên núi Sở vợ sông Tần.
Tuyệt Mạng - rất xấu: Bất đắc kỳ tử.
Chồng Cấn lấy vợ cung Tốn / Căn phần khó tránh tóc tang thương tổn /Trong hai chắc mất một người / Tử biệt đừng hòng tìm phương trốn chạy.
=> Hôn nhân: khó thành
- Cấn + Ly: (Họa Hại - rất xấu).
Chồng Cấn lấy vợ cung Ly/ Bất tường tai ách sầu bi gia đình!/Yêu đương một tấm chân tình / Cũng chưa thỏa hiệp đôi mình sánh đôi.
=> Hôn nhân: khó hợp, không nên tin người ngoài.

- Cấn + Khôn: Cây khô gặp lửa gọi tương sanh / Sớm gặp bại suy muộn mới thành /Sanh khí tuy nhiều nhưng phải chậm / Cháu con rồi cũng có uy danh.
Sanh Khí: Gia đạo thuận thảo.
Chồng Cấn lấy vợ cung Khôn / Sống đời loan phượng phước tồn hậu lai /Quan lộc có hưởng hoạnh tài / Nhà cao cửa rộng quyền oai vô cùng.
=> Hôn nhân: trắc trở, không thành.

 - Cấn Đoài số thấy được Diên Niên / Chồng Mộc vợ Kim khắc cũng phiền / Giàu có ắt là cam hiếm muộn / Gặp nhau xa xứ mới là yên.
Diên Niên: Trung bình
Chồng Cấn lấy vợ cung Đoài / Đẹp duyên cá nước tiền tài vượng hưng /Số này thời vận đáng mừng / Hao con hao của bậc trung thanh nhàn.
=> Hôn nhân: khó thành.

4- Nam Chấn + Kiền: Lục Sát họa đeo dai / Chồng vợ bất hòa lắm đắng cay /Nếu được giầu sang thì cách trở / Gần nhau lệ đổ suốt canh dài.
Lục Sát: Thất bại ngay từ đầu.
Chồng Chấn lấy vợ cung Kiền (Ngũ Quỷ) / Gia đình xáo trộn điêu tàn lửa hương /Nửa chừng xuân mộng thê lương / Uyên ương bỏ gánh canh thường từ đây ...
=> Hôn nhân: không có kết quả.

- Chấn Khảm Thiên Y ấy lộc trời / Cây nhờ nước tưới lá hoa tươi /Cháu con thông tuệ đề khoa bảng / Lộc hưởng vinh sang phước để đời.
Thiên Y: Như ý sở cầu.
Chồng Chấn lấy vợ cung Khảm / Trăm tuổi phu thê nghĩa tình nồng thắm /Hiển vinh hưởng thụ vững bền / Dâu hiền rể thảo cả nhà ấm êm.
=> Hôn nhân: có thể thành, song cuối cùng có thể tan rã.

- Chấn + Cấn: kết duyên Ngũ Quỷ sanh / Cửa nhà sự nghiệp lập sao thành / Cháu con bệnh tật tài hao tán / Chồng vợ khổ sầu lệ trắng canh.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Lộn xộn nội gia.
Chồng Chấn lấy vợ cung Cấn (Lục Sát) / Cố số phu thê âm thầm tủi hận /Gia đạo lục đục bất hòa / Đời sống cơ hàn, con cái lận đận /Rừng cao gió mạnh vụt ào ào / Hoa trái tơi bời cành lá hao /Lập nghiệp gian nan mới đạt chí / Phước lành cũng được hưởng về sau.
Thật xấu: Vợ chồng sanh ly.
=> Hôn nhân: không thành.

- Chồng Chấn lấy vợ cung Chấn: (Phục Vị - tốt vừa ) 
Duyên nợ trung bình tiền hậu như nhứt /Cả đời no ấm nhờ trời / Yên vui gia đạo thuận hòa dưới trên /Mộc hỏa tương sanh nhưng nghịch thường / Cung chồng kém vợ phải chịu nhường / Dầu cho cách trở rồi sau hợp / Con cháu Diên Niên phước thọ trường.
=> Hôn nhân: khó thành, nên im tiếng.

- Chồng Chấn lấy vợ cung Tốn Diên Niên (Thật tốt )
Gia đình đầm ấm/Trung niên hậu vận giàu sang hưởng tròn/ Cuộc tình bền vững vợ chồng / Sanh con trai trưởng sẽ thành đại quan.
=> Hôn nhân: kết thành lương duyên.

- Chấn + Ly (Sanh Khí - Rất tốt)
sanh khí được giao hòa / Phát đạt giầu sang rạng thất gia /Con cháu lâu bền danh vọng lớn / Tương lai thêm nức tiếng tăm nhà.
Sanh Khí: Phúc đức tổ phụ giàu.
Chồng Chấn lấy vợ cung Ly / Hiệp hôn cang lệ trọn nghìn thủy chung /Mạng phú quý cháu con hùng / Lớn lên số ắt phước hồng quyền uy.
=> Hôn nhân: thành lương duyên, nhưng gặp nhiều điều tiếng.

- Chấn + Khôn: Họa hại khó hòa duyên / Mộc Thổ tương hiềm lắm lụy phiền /
Nhà cửa ruộng vườn có cũng hết / Cháu con đau ốm khổ liên miên.
Họa Tai - thật xấu: Duyên kiếp phũ phàng.
Chồng Chấn lấy vợ cung Khôn / Nợ duyên khốn đốn dập dồn oan khiên /Trong ngoài thân thế đảo điên / Tai ương bệnh tật dính liền bên lưng.
=> Hôn nhân: tuy bị ngăn trở, xong thành lương duyên.

- Chấn Đoài Tuyệt Mạng chớ gần nhau / Mộc khắc Kim thương biết nói sao /
Nếu đã lỡ mà đeo khổ lụy / Cháu con hoạn nạn lâi xa nhau.
Tuyệt Mạng - thật xấu: Chết chóc bất ngờ.
Chồng Chấn lấy vợ cung Đoài / Nợ duyên sau trước thiệt thòi lứa đôi /Vợ chồng không ở trọn đời / Cháu con bất lợi cút côi lụy phiền.
=> Hôn nhân: khó thành, không có lương duyên.

5- Nam Tốn + Kiền: (Họa hại - thật xấu)
Thủy hỏa khó yên thân / Họa hại thường sanh biết mấy lần / Nhà cửa lạnh lùng tiền của hết / Cháu con lây chịu cảnh khó bần.
Họa Tai: Hoạn nạn bất tường.
Chồng Tốn lấy vợ cung Kiền / Yêu đương tác hiệp buồn than đêm ngày /Triền miên tai ách không hay / Nợ duyên sầu muộn đắng cay cuộc đời ...
=> Hôn nhân: đang bị ngăn trở.

- Tốn + Khảm: Sanh Khí xa xa thấy dạng rồi / Vợ chồng duyên số tự nơi trời /
Cửa nhà rạng rỡ công danh đẹp / Con cháu vinh sang nối nghiệp đời.
Sanh Khí: Hào con hào tài tốt.
Chồng Tốn lấy vợ cung Khảm / Tiền định phu thê hiệp vầy duyên thắm /Lộc tài phát vượng huy hoàng / Cái con khi lớn sống đời gấm nhung.
=> Hôn nhân: khó thành.

- Tốn + Cấn: Số ghi Tuyệt Mạng khó nên duyên / Đeo đẳng càng sanh nỗi lụy phiền /Buồn khổ lại thêm nhiều hoạn nạn / Cháu con vất vả có đâu yên.
Tuyệt Mạng - rất xấu: Bất đắc kỳ tử.
Chồng Tốn lấy vợ cung Cấn / Ái tình chưa thỏa gối chăn chẳng gần /Số goá lẻ mạng có phần / Nợ duyên ân hận chia phân đôi đàng.

- Tốn + Chấn:  Phước Đức cũng nhờ ở tổ tông / Tốn khôn phối hợp đẹp mây rồng /Cửa nhà thịnh vượng cháu con quý / Đại phú do Thiên, tiểu phú cần.
Phước Đức - thật tốt: May mắn uy quyền.
Chồng Tốn lấy vợ cung Chấn / Số được phú quý trọn đời an thân /Bạc tiền điền sản có phần / Nợ duyên phu phụ mặn nồng thiên niên.
=> Hôn nhân: kiên nhẫn thành lương duyên.

 - Lưỡng Tốn: Yêu nhau hóa hại nhau / Gần nhau thì số chịu thương đau / Cửa nhà thiếu hụt con đau bệnh / Gần khó xa ra mới được giàu.
Phục Vị: Không mấy tốt. Tạm coi là an bài số phận.
Chồng Tốn lấy vợ cung Tốn / Bình thường cuộc sống vinh danh trốn /Ba sinh duyên đẹp tình nồng / Tấn tài sự nghiệp tử tôn trời dành.
=> Hôn nhân: khó thành.

- Tốn Ly phối ngẫu vốn tương hòa / Cưới hỏi ba năm rạng cửa nhà / Con cái học hành đều đỗ đạt / Rạng danh nhờ lập nghiệp phương xa.
Thiên Y: Bách niên giai lão.
Chồng Tốn lấy vợ cung Ly / Mạng trường thân thế ai bì được đâu /Uy quyền tiền bạc bền lâu / Nợ duyên hạnh hưởng trăm năm sang giàu.
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên.

Tốn + Khôn: Ngũ Quỷ hình thương ám ảnh hoài / Rốt rồi nam bắc phải chia hai /Nếu còn vướng bận dây con cái / Cũng phải bôn ba đến xứ ngoài.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Gia cảnh hục hoặc.
Chồng Tốn lấy vợ cung Khôn / Sanh cơ khốn đốn tháng năm bồn chồn /Nợ duyên vốn đã an bài / Trung niên ắt phài đổi thay cuộc tình.
=> Hôn nhân: đa phần đều gãy đổ, nên suy nghĩ kỹ trước khi kết hợp.

Tốn + Đoài: Số cao cay đắng cực thân mình / Lục Sát tương xung phạm khắc hình /Nhà cửa ruộng vườn tiền của sạch / Cháu con cơ khổ lắm lênh đênh.
Lục Sát: Sự nghiệp khó giữ.
Chồng Tốn lấy vợ cung Đoài / Hiệp hôn để thấy đeo đai khổ phiền /Cửa nhà sa sút ngữa nghiêng / Dây điều đổi nợ thay duyên phũ phàng.
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên.

6- Nam Ly + Kiền thủy hỏa chớ nên gần / Phận mỏng thà cam chịu rẻ phân / Nếu được cùng nhau đầu tóc bạc / Cháu con nghèo khó mạng cơ bần.
Tuyệt Mạng - rất xấu: Tử biệt sanh ly.
Chồng Ly lấy vợ cung Kiền / Nợ duyên gẫy cánh giữa đàng thảm thương! /Cho hay cái số đoạn trường / Lụy phiền ly tán bất tường phu thê.
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên.

 - Ly + Khảm: Chúng thủy triều nguyên Phúc Đức sinh / Đường hoàng hoa lệ đẹp gia đình /Cháu con hiển đạt nên danh phận / Giầu lớn số trời, giầu nhỏ mình.
Phước Đức: Vĩnh viễn một bề.
Chồng Ly lấy vợ cung Khảm / Được số hiển đạt phu vinh thê ấm /Tình yêu hương lửa mặn nồng / Tương lai con cái trưởng thành bảng khoa.
=> Hôn nhân: có lương duyên song phải tốn thời gian.

- Ly + Cấn: Hai người khắc phá khó nên duyên / Họa hại buồn thương lắm lụy phiền /Bệnh hoạn triền miên tiền của sạch / Cháu con nghèo khó lại không hiền.
Hại Họa - rất xấu: Gian truân khốn khổ.
Chồng Ly lấy vợ cung Cấn / Tiền hậu phu thê thủy chung bất nhứt /Đời sống ách tật đeo mang / Chồng vợ đa đoan thân mạng thiệt thòi.
=> Hôn nhân: không phải lương duyên.

 - Ly + Chấn: Sinh khí một vừng ánh sáng tươi / Đẹp duyên cầm sắt số do Trời /
Cửa nhà cao rộng con hiền hiếu / Lộc thọ vinh sang phước hưởng đời.
Sanh Khí - rất tốt: Phát đạt trường cửu.
Chồng Ly lấy vợ cung Chấn / Ý hợp tâm đầu làm nên gia thất /Phong lưu nhàn hạ trọn đời / Trung niên hậu vận thảnh thơi mọi đàng.
=> Hôn nhân: khó thành vì trở ngại.

- Trai Ly gái Tốn số trời dành / Sớm muộn rồi đây cũng rạng danh /Con cháu nhờ ơn cha mẹ để / Vinh sang phước lộc thuở ngày xanh.
Thiên Y- rất tốt : Thịnh vượng uy thế lớn.
Chồng Ly lấy vợ cung Tốn / Căn mạng nợ duyên trời cho yên ổn /Cả đời ấm cúng giầu sang / Cháu con trai gái vẹn toàn bổn căn.
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên.

- Lưỡng Ly: Chưa hiệp thấy mòi suy / Hai hỏa gặp nhau tắt có khi /Nghèo khó bên nhau giầu tử biệt / Vợ chồng đôi ngã con phân ly.
Phục Vị: Không mấy tốt.Vợ chồng sống nghèo nàn.
Chồng Ly lấy vợ cung Ly / Ái tình hương lửa trọn nghìn thủy chung /Bạc tiền giầu có bậc trung / Thân danh hậu vận lẫy lừng tiếng thơm.
=> Hôn nhân: không thành.

- Ly + Khôn: Một giải ngân hà đã trải qua / Vì phương Lục Sát khó giao hòa /
Chăn nuôi vườn ruộng không nên nghiệp / Gặp gỡ xa quê tạm gọi là.
Lục Sát: Thân bại danh liệt.
Chồng Ly lấy vợ cung Khôn / Kiết hung luân chuyển dập dồn lo âu /Trai sa đọa gái lẳng sầu / Trước sau rồi cũng hững hờ nợ duyên ...
=> Hôn nhân: có thể thành lương duyên.

- Ly + Đoài: Hai ngôi Ngũ Quỷ khắc xung hình / Gặp gỡ sau, sao cũng phát sinh /Tang tóc mẹ cha sầu tử biệt / Mỗi người một ngã hận ly tình.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Vợ chồng bất đồng luôn.
Chồng Ly lấy vợ cung Đoài / Bạc tiền bạo phát nhưng hoài công lao /Nửa đời căn kiếp ba đào / Cửa nhà điền sản tiêu hao không còn.
=> Hôn nhân: khó thành, không có lương duyên.

7- Nam Khôn+ Càn: Diên Niên ấy phước lộc miên trường / Con cháu lâu dài hưởng thọ xương /Dựng nghiệp chuyên cần lại tính thiện / Trai hiền rể hiếu rạng gia đường.
Diên Niên: Tương đối êm đẹp.
Chồng Khôn lấy vợ cung Kiền (Phúc Đức) / May duyên phải nợ liền căn định phần /Bổn mạng lại có quý nhân / Được số phú quý vinh thân an nhàn.
=> Hôn nhân: thành nhân duyên tốt.

- Khôn+ Khảm: số khắc khó nên duyên / Nếu giầu thì yểu khó nghèo yên / Cháu con vất vả thân đa bệnh / Gia đạo suy vi lắm lụy phiền.
Tuyệt Mạng - rất xấu: Hoạn nạn chết chóc.
Chồng Khôn lấy vợ cung Khảm / Căn phần nợ duyên chuốc bao sầu thảm /Nửa đời dở dang hay chăng / Vợ chồng hai lối đổi dời tán ly.
=> Hôn nhân: khó thành, có thành thì sau sẽ không hay.

- Khôn + Cấn: Phải chịu gian nan cực buổi đầu / Ba năm nghĩ cũng chẳng bao lâu /Sau này phước lộc trời cho đó / Nhà cửa vinh quang lọ phải cầu.
Sanh Khí: Hòa hợp tâm tình.
Chồng Khôn lấy vợ cung Cấn / Sanh cơ mọi bề thời hưng phấn chấn /Gia đạo sau trước thuận hòa / Ruộng vườn điền sản đẫy đà ngoài trong.
=> Hôn nhân: chờ thời gian kết thành lương duyên.

- Khôn + Chấn: Họa hại trùng trùng kéo tới đây / Chấn Khôn khó hiệp nợ duyên này /Sống lâu thêm khổ giầu ly biệt / Con cháu vô can bị vạ lây.
Họa hại - rất xấu: Nguy khốn nghèo hèn.
Chồng Khôn lấy vợ cung Chấn (Họa Hại) / Không hình ngục thì cũng luôn bệnh tật /Nợ duyên lấp bấp khổ buồn / Cơ sinh chật vật sống đời lầm than.
=> Hôn nhân: đang gặp trở ngại, nêu kiên nhẫn có thể thành.

- Khôn + Tốn: Khi ở xa nhau thương nhớ nhau / Gần nhau không cãi cũng sanh đau /Trong nhà Ngũ Quỷ năm phương dậy / Kết cuộc nhà xiêu gió thổi nhào.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Gia đình hay bất hòa, ám ảnh hoài, rút cuộc phải chia 2.
Chồng Khôn lấy vợ cung Tốn / Cuộc đời chật vật cơ cực thiếu thốn /Nghịch thường duyên nợ lênh đênh / Bất hòa, con cháu bôn ba, khốn cùng.
=>Hôn nhân: thành lương duyên sau một thời gian dài.

- Khôn + Ly: Lục Sát hình xung khó kết thành / Ngân hà trắng xóa nước ênh mông / Tha hương gặp gỡ còn nhàn hạ / Một xứ giao hòa hoạn họa sanh.
Lục Sát: Đời sống chật vật, lận đận lao đao.
Chồng Khôn lấy vợ cung Ly / Nợ duyên ắt phải sầu bi tháng ngày /Đa truân hệ lụy nạn tai / Gia đình lụn bại tương lai mơ hồ.
=> Hôn nhân: khó thành lương duyên.

- Khôn + Khôn: Tai nạn liên miên khổ dập dồn / Nếu tình duyên kết Khôn với Khôn /Công danh sự nghiệp mòn con mắt / Kẻ ở người đi cách nước non.
Phục Vị: Không tốt. Cuộc đời tạm được bình dị.
Chồng Khôn lấy vợ cung Khôn / Keo sơn gắn bó cháu con vẹn toàn /Trung niên mấy lượt thăng trầm / Về sau phú quý trăm phần phong lưu.
=> Hôn nhân: cần thời gian tìm hiểu mới thành.

 - Khôn + Đoài: Thiên Y kim thổ lộc trời ban / Phước thọ miên trường con cháu sang /Vườn ruộng cửa nhà đầy mỹ lệ / Trăm năm vui hưởng chữ bình an.
Thiên Y - rất tốt: Thỏa mãn tinh thần vật chất.
Chồng Khôn lấy vợ cung Đoài / Mạng tướng được hưởng lộc thọ lâu dài /Con trai hiển đạt công hầu / Gái hiền rể thảo trước sau toại lòng.
=> Hôn nhân: thành lương duyên sau một thời gian dài.

8- Nam Đoài + Kiền: Phước Đức lớn vô cùng / Kim Thủy tương sanh được ở chung /Con cháu sau này thành đại nghiệp / Trai hiền gái hiếu vẹn câu tùng.
Phước đức: Trước sau êm ấm phát đạt...
Chồng Đoài lấy vợ cung Kiền (Sanh Khí) / Hôn nhân bền vững lộc quan vượng tài /Sanh cơ vốn một lời hai / Lầu cao cửa rộng gái trai ngoan hiền.
=> Đoài (gái út), Kiền (người cha) 2 cung kết hợp theo tử vi là Sinh khí, để muốn tăng trưởng sinh khí người cung Kiền phải nhất tâm (như người cha lo cho con gái), ngược lại sẽ rơi vào quẻ Quải " không như ý, có thành cũng bất hạnh".

- Đoài + Khảm: Họa hại mà tương sanh / Gặp nhau xa xứ chắc nên danh / Dù không phú quý vinh hoa lớn / Cũng hưởng khang an con cháu vinh.
Họa hại- rất xấu: Hoạn nạn bệnh tật.
Chồng Đoài lấy vợ cung Khảm / Tai ương ách tật dồn dập thê thảm /Nửa đời thân phận sanh ly / Phu thê lãnh đạm trái ngang đến thì ...
=> Hôn nhân: khó thành, bị cự tuyệt.

- Đoài + Cấn: Cháu quý con vinh phước đức nhàn / Diên Niên ấy phước tự trời ban / Đầu xanh yêu kính như đầu bạc / Không được giầu ắt cũng được sang.
Diên niên (Thiên y): Tốt đẹp. 
Chồng Đoài lấy vợ cung Cấn / Phụ ấm sẵn dành bề tài lợi tấn /
Đạo gia thê tử ấm êm / Nợ duyên nồng thắm trọn đời lửa hương.
=> Hôn nhân: thành lương duyên, tốt đẹp.

- Đoài Chấn: Kim khắc Mộc thương quá rõ ràng / Đoài Chấn tương hợp khó bình an /Nếu không nghèo khổ nhiều đau bệnh / Ắt cũng chia ly kẻ một đàng.
Tuyệt Mạng - rất xấu: Tiêu hao tang tóc.
Chồng Đoài lấy vợ cung Chấn / Ái tình gối chăn khó yên thân phận /Lụy phiền duyên nợ lìa tan / Kiếp căn lận đận muôn ngàn đa truân.
=> Hôn nhân: nếu không nóng vội sẽ có lương duyên.

- Đoài + Tốn: Trái số nên không trọn nợ duyên / Hình xung Lục Sát ở sao yên /
Công danh tài lộc cầu không được / Tử biệt sanh ly con cháu phiền.
Lục Sát: Khốn khổ nghèo khó.
Chồng Đoài lấy vợ cung Tốn / Xáo trộn gia đình sanh cơ khốn đốn /Cháu con lớn nhỏ bất tường / Nghĩa tình phai lạt lăng loàn tứ phương.
=> Hôn nhân: khó thành

- Đoài + Ly: Mẹ cha tang tóc cháu con buồn / Ngũ Quỷ phạm thì giọt lệ tuôn /
Đa sanh bệnh tật đa tai nạn / Vui ở buồn bay mỏng cánh chuồn.
Ngũ Quỷ - rất xấu: Phiền não rắc rối.
Chồng Đoài lấy vợ cung Ly / Cố công cho mấy kiếp sanh ra gì /Nợ duyên như sợi chỉ mành / Thân danh sự nghiệp bất thành không sai.
=> Hôn nhân: phải tìm đối tượng khác.

- Đoài + Khôn: Trời dành cung số được Thiên Y / Họp mặt đủ đầy có thiếu chi /
Nhà cửa đường hoàng vườn ruộng tốt / Cháu con vinh hiển mấy ai bì.
Sanh khí: Vững bổn mạng tài lộc.
Chồng Đoài lấy vợ cung Khôn / Một đàn thê tử vuông tròn giầu sang /Gia đình sau trước huy hoàng / Trung niên hậu vận rỡ ràng nghiệp danh.
=> Hôn nhân: thành lương duyên.

- Đoài+ Đoài:  Nhật lạc non Đoài sương sắp rơi / Gặp nhau rồi cũng cách đôi nơi /Nếu không khăn trắng trùm lên tóc / Thì khổ triền miên cả cuộc đời.
Phục Vị: Không mấy tốt. Số oan khiên tiền định.
Chồng Đoài lấy vợ cung Đoài / Bình thường thì có tiền tài bậc trung.
=> Hôn nhân: thành lương duyên.
=>(*http://choiphongthuy.com/kinh-dich/) Kết quả khi phối theo Dịch lý của Nam & Nữ - Cung sanh năm năm, Cung sanh ngày ngày - Cần quý độc giả chiêm nghiệm thêm...
PHỐI CHÉO CUNG DỊCH LÝ (Năm-Năm; Ngày-Ngày; Năm-Ngày: mỗi cung 30%) 
Vd: Khắc cung năm nhưng hợp cung ngày với ngày+ hợp cung ngày với năm: 60%) 

Tiên: Nam - Hậu: Nữ

Chú ý: Nhật chủ (tức ngày sanh), là 2 trong tám chữ (Bát Tự: Giờ sinh, ngày, tháng, năm sinh) quan trọng luôn được dùng để phối cung (tinh chỉnh ở trình độ cao) nhằm tìm kiếm hoặc lý giải sự kiết/hung, sinh/khắc, vượng/suy ngũ hành tự thân với tất cả các mối quan hệ trong gia đình, ngoài xã hội. Hiểu biết để từ đó mọi người có giải pháp chế hóa, tương thuận, vun bồi khi hữu duyên gặp 'hạt giống lành' và ngược lại tránh hoài công dã tràng xe cát.

Vd: Nam sanh 3g30' ngày15, tháng7, năm 1976 (Dương) 
=> Âm lịch: Giờ Giáp Dần, ngày Mậu Thìn, tháng Ất Mùi, năm Bính Thìn.

Trong đó:
- Giờ Giáp Dần thuộc cung: Cấn; Ngũ hành: Thủy (Đại khê thủy).
- Ngày Mậu Thìn thuộc cung: Đoài; Ngũ hành: Mộc (Đại lâm mộc).
- Tháng Ất Mùi thuộc cung: Khảm; Ngũ hành: Thổ (Sa trung thổ).
- Năm Bính Thìn thuộc cung Khảm; Ngũ hành: Thổ Sa trung thổ).

==> Như vậy, cung sanh của năm là Khảm-ngũ hành Thổ; nhưng cung sanh của ngày-tức Nhật Chủ (cung qtr nhất) là cung Đoài-ngũ hành là Mộc. 

Khi phối cung sanh nam-nữ có thể bị khắc kị (có thể khắc cả về dịch lý lẫn ngũ hành), để có kết quả chính xác chúng ta phải tiến hành "tinh chỉnh" giữa Nhật Chủ với cung ngày or cung năm của nữ (hợp 1trong 2 là được, nếu được cả 2 thì khỏi bàn), tránh sai sót từ hợp hóa thành khắc kị... 

- Theo Bát Tự: Cung năm (hay trụ năm xem là gốc rễ) thuộc về tổ tiên, cha mẹ, phước báu... mà Nhật chủ được thừa tự.
- Cung Tháng: Nói về mối quan hệ thuận nghịch của anh/em, bạn hữu...
- Trụ ngày: Là chính ta & cung vợ chồng, chồng vợ (Nhật chủ, tương tác với 3 trụ còn lại).
- Trụ giờ: Thuộc về con cái, hay những sản phẩm do bản thân tạo dựng...

==>> Sự kết hợp giữa các cung sơ bộ cho ta biết ý nghĩa tốt/xấu giữa các mối quan hệ, đồng thời nó cũng giúp ta có thể thấu hiểu nhiều ẩn nghĩa tưởng mờ ảo nhưng thực ra lại rất rõ ràng mỗi khi ta để tâm quan sát, trải nghiệm ...

=>> Xin nhớ không cứ năm hợp/khắc (cần tiến hành tinh chỉnh), được cả cung ngày lẫn cung năm thì thật là viên mãn. Khắc năm nhưng được ngày sẽ tốt hơn được năm nhưng khắc ngày, (Khắc cả cung ngày & năm thì nên tránh đi).

II. NGŨ HÀNH PHỐI HỢP TRONG HÔN NHÂN
MẠNG KIM
1. Chồng mạng kim lấy vợ mạng kim bất lợi, gay cấn, khống chế (nếu thiên can và địa chi đều hợp) thì lưỡng kim thành khí tốt nhưng hay sinh sự bất hòa, tư tưởng thù nghịch.

2. Chồng mạng kim vợ mạng mộc xung kỵ khốn khổ, vất vả trật vật gian truân, có thể sanh ly tử biệt, hoặc ốm đau tật bệnh liên miên làm ăn thất bại, hiếm con cái.

3. Chồng kim vợ mạng hỏa khắc sát (thâm căn ) vợ chồng hục hoặc rầy rà, cãi vã, bần cùng cơ cực

4. Chồng mạng kim vợ mạng thổ đại lợi (đại lộc ) gia đình sung mãn, tâm đầu ý hợp, giàu sang, phú quý, sung sướng.

5. Chồng mạng kim vợ mạng thủy lương duyên (tiền đình ) căn kiếp tự thời an bài, phát đạt sự nghiệp, con cái đầy nhà.

MẠNG MỘC
1. Chồng mạng mộc vợ mạng mộc quan lộc (quý số) phong lưu trọn đời,công danh sự nghiệp bền bỉ lâu dài, con cái trưởng thành thi cử đổ đạt.

2. Chổng mạng mộc vợ mạng thủy tương sinh (phúc đức ) ăn đời ở kiếp tới già,còn hưởng thương giả phú hộ.

3. Chồng mạng mộc vợ mạng thổ đái phú (tương hợp) (đại làm mộc) vợ chồng thuận thảo bách niên giai lão.

4. Chồng mạng mộc vợ mạng hỏa sinh khí (thịnh vượng) của tiền trời cho, dư ăn, chỉ để ruộng cò bay thẳng cánh.

5. Chồng mạng mộc vợ mạng kim khắc kỵ (bất tường) vợ chồng ăn ở không bền, lâu trước hợp sau chia lìa. Con cái cơ hàn.

MẠNG THỦY
1. Chồng mạng thủy vợ mạng thủy (song thủy) bình dị tuy rằng không mấy tốt, nhưng cặp vợ chồng này tương đối yên ổn, đời sống tầm thường.

2. Chồng thủy vợ mộc: nhân duyên tiền kiếp, gia đình trên thuận dưới hòa, con cái đông đủ, thi cử đỗ đạt gia đình giàu sang, vợ chồng sống với nhau tới già.

3. Chồng mạng thủy vợ mạng hỏa: thiên định (tác thành) oan khiêm tiền kiếp, nhưng vợ chồng tạm sống bình dị an vui, con cái khó phát đạt.

4. Chồng mạng thủy vợ mạng thổ: Bất lợi (dị đồng) gia đình, vợ chồng chung sống không mấy khi được no cơm ấm áo, nghèo hèn chia ly, nhưng hao con lại được.

5. Chồng mạng thủy vợ mạng kim: sinh tài tự nhiên, sung sướng phát đạt, yên vui cả đời, con cái đỗ đạt, gia đình giàu sang, phú quý hiển vinh.

MẠNG HỎA

1. Chồng mạng hỏa vợ mạng hỏa: hưng vượng ( tùy thời), cơ hội tối nếu biết nắm bắt làm ăn thì sự nghiệp phát mạnh, vợ chồng bền vững.

2. Chồng mạng hỏa vợ mạng kim: khắc kỵ (sinh họa) vợ chồng ăn ở không lâu, dễ sinh ra kiện tụng ly dị, chia ly, con cái hiếm hoi khó phát đạt (trừ kiếm phong kim).

3. Chồng mạng hỏa vợ mang mộc: sở đắc (tài lộc) nếu đại lâm mộc) được phúc đức tài lộc thọ vượng.

4. Chồng mạng hỏa vợ mạng thổ: thiên định (phần số) gia đình phú túc sung mãn, trường thọ, con cháu hiển vinh.

5. Chồng mạng hỏa vợ mạng thủy: đại khắc (đại nạn) vợ chồng gặp nhiều tai bay họa gió, hơn là may mắn, cuộc sống xung khắc nghèo hèn, con cháu hiếm hoi khó phát đạt.

MẠNG THỔ
1. Chồng mạng thổ vợ mạng thổ: tương sinh (tiền duyên) khó hậu, duyên dễ, vợ chồng ăn nên làm ra.

2. Chồng mạng thổ vợ mạng kim: đắc vận, vợ chồng tương đắc giàu sang, danh vọng, có uy quyền.

3. Chồng mạng thổ, vợ mạng mộc: bất lợi, bi đát, phần lìa (trừ đại lâm mộc thì được) khó bền, phạm li biệt.

4. Chồng mạng thổ vợ mạng thủy: tối kỵ, thất tình, sinh ly tử biệt, con cái hiếm hoi khó phát đạt, bần hàn.

5. Chồng mạng thổ vợ mạng hỏa: đắc tài, vợ chồng giàu sang, phú quý, uy quyền, sống lâu, bách niên giai lão, con đàn cháu đống, thành đạt, sự nghiệp vững bền.


III. Thiên Can Chồng Lấy Địa Chi Vợ:
Khi xem tuổi chồng vợ dùng Thiên Can của người nam áp vào  12 Địa Chi tuổi nữ, có thể hòa thuận suốt đời và sanh con khỏe mạnh, thông minh or ngược lại...

- 10 Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý
- 12 Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi

1. Trai có chữ Giáp lấy vợ tuổi:
- Tý: có con cái đều đặng danh dự và quyền thế, nhưng không có âm đức về sau

- Sửu, Dần: có con không đặng nhờ vì con không đặng hiếu hạnh

- Mão: vợ chồng không an toàn, hoặc có hư thai.

- Thìn: có con cháu không toàn vẹn

- Tỵ: cuộc tình chồng nghĩa vợ dỡ dang, chẳng đặng bền lâu

- Ngọ, Mùi: có con khó nuôi đến lớn

- Thân: con cháu thi đỗ được nhiều khoa, nhưng rồi cũng không bền

- Dậu, Tuất: cửa nhà vẻ vang, con cái thi đỗ thành công, con quý, rể hiền

- Hợi: con cháu đặng thi đỗ, nhưng trước vinh sau nhục, trước giàu sau nghèo

2. Trai có chữ Ất + tuổi vợ:
- Tý: con cái đặng thi đỗ, nhưng phải chịu gian nan thưở nhỏ, sung sướng về tuổi già

- Sửu, Dần: sanh con cháu thi đỗ nhiều, nhưng cũng phải trước giàu sau nghèo

- Mẹo: nếu không có con thì mới đặng an toàn

- Thìn, Tỵ: sanh con sang trọng, đặng công thành danh toại

- Ngọ: vợ chồng được song toàn đại lợi, nhưng sau cũng sanh buồn phiền

- Mùi: được giàu sang vinh hiển, sanh con cháu thi đỗ đặng nhiều khoa

- Thân: có thi đỗ nhưng sau cũng không lợi

- Dậu: vợ chồng khó đặng toàn vẹn, từ 30 tuổi trở lên mới biết sự hay dở

-Tuất, Hợi: vợ chồng trước nghèo sau giàu

3. Trai có chữ Bính lấy:
- Tý: người vợ sanh sản khó, nhưng nuôi được thì được danh thơm, trước sau cũng được giàu sang đại lợi. Nếu được vợ lẽ thì người vợ lẽ ấy sẽ sanh con trai.

- Sửu: vợ chồng làm ăn khó nhọc, sau sẽ có lợi, sanh con trai thi đỗ, nhưng con phải có tật bịnh mới có thể nuôi đặng đến lớn

- Dần: vợ chồng khi lìa khi hiệp, rồi sau cũng đặng sum vầy, sanh con trai thi đỗ vì đặng chữ “Phùng Xuân” ứng. 

- Mẹo, Thìn: làm ăn lúc thạnh lúc suy, nhiều con chẳng thành đạt, dầu có lúc phong lưu cũng vô ích

- Tỵ: đặng phú quý vinh hoa, sung sướng đến trọn đời, con cháu cũng đặng hiển đạt

- Ngọ, Mùi: vợ chồng đặng giàu sang đại lợi, từ 40 tuổi trở lên sẽ có tiểu tật, con đặng thi đỗ

- Thân: vợ chồng làm ăn trước phải chịu gian nan, sau sẽ phú túc, tích nhiều thành đa, cần kiệm sẽ khá

- Dậu: vợ chồng đặng song toàn, trước nghèo sau giàu, con cái ít.

- Tuất, Hợi: có con khó nuôi, vợ chồng trước hiệp sau lìa

4. Trai có chữ Đinh lấy:
- Tý, Sửu: vợ chồng rất gian truân, chẳng đặng yên ổn, con cái cũng khó nuôi, hoặc nghèo nàn

- Dần: trước lành sau dỡ, khó được bén duyên tơ tóc

- Mẹo: cuộc tình duyên vui vầy và hạnh phúc, có con cháu đông

- Thìn: có hai đứa con đặng thi đỗ, quan tước hiển vinh, nếu có vợ lẽ cũng đặng giàu sang

- Tỵ: trước sau cũng đều đặng sang giàu, con cái đặng thi đỗ thành danh và đại lợi

-  Ngọ, Mùi: sanh con gái đầu lòng thì không đặng lợi, cửa nhà ắt bị hao tổn, phải nuôi con nuôi thì nuôi con ruột mới dễ được, hay là lấy vợ lẽ mới đặng toàn hảo thuỷ chung

- Thân, Dậu: được quyền cao tước trọng, nhưng sau cũng bị mất chức, trước hay sau dỡ

- Tuất: vợ chồng phải tha hương xứ người mới được hào phú đại lợi, có quyền quý, sanh con gái đặng song toàn

- Hợi: trước có nhà cửa huy hoàng, sau gặp lúc phong ba, nếu là quan quyền thì lận đận lắm.

5. Trai có chữ Mậu lấy:
- Tý: vợ chồng đặng sum vầy hòa hiệp, phú quý vinh hoa, trước sau đều đại lợi, con cháu cũng đặng giàu sang

- Sửu, Dần: trai gái đều đặng toàn vẹn, vợ chồng cũng đặng song toàn hạnh phúc

- Mẹo: vợ chồng làm ăn đủ dùng, nếu tha phương làm ăn lại càng hay, thuở đầu hơi gian nan, về sau sung sướng

- Thìn: trước phải chịu cảnh gian truân, về sau đặng vinh hiển, lại e cuộc tình duyên chẳng đáng vẹn toàn.

- Tỵ, Ngọ: khó bề đặng phú quý, nếu trai gái đều toàn thì sanh biến, không biến thì nhà cửa phải tiêu tan, dầu cho có quan lộc cũng phải biến

-  Mùi, Thân: trước sau đều đặng đại lợi, sanh con nhiều và tròn vẹn

- Dậu: lúc đầu đại lợi sau rồi vô ích, nếu lấy vợ lẽ sẽ sanh con trai được trọng quyền

- Tuất, Hợi: không nhờ con cái, đi tha phương lại càng tốt.

6. Trai có chữ Kỷ lấy:
- Tý: vợ chồng làm ăn đặng thịnh vượng, nhưng trước phải đặng nghèo, rồi sau mới đặng giàu

- Sửu, Dần: sanh con trai khó nuôi được đến lớn, đi làng khác mới được yên, vợ lẽ sanh con dễ nuôi hơn

- Mẹo, Thìn: phải tha phương mới nên sự nghiệp, giàu sang mà sanh con trai, sau không có con gái là khí âm tiêu hết

- Tỵ, Ngọ: gặp thời thì thạnh lỗi mùa thì suy, vợ chồng cách trở tha phương, chẳng chết thì cũng lìa xa đôi ngã, đời sau vợ chồng mới sanh con trai

- Mùi, Thân: vợ chồng được trường cửu hạnh phúc song toàn, nhiều con thi đỗ cao, và vinh quang trọn đời

- Dậu: vợ chồng khó đặng bền lâu, phải ly biệt, nếu ăn ở với nhau được thì cũng thường ốm đau bịnh tật

- Tuất: sanh con chẳng đặng nhờ vì con bất hiếu, nến con có đỗ cao cũng phải chịu khó về sau

- Hợi: vợ chồng đặng song toàn hạnh phúc, nhà cửa phú túc, con cháu đông đúc và thi đỗ cao

7. Trai có chữ Canh lấy:
- Tý, Sửu: lấy nhau gặp thời thì tốt, nếu không thì dù trai hay gái cũng trọn đời chẳng có gì là vinh hiển

- Dần, Mẹo: trước phải gian truân, sau mới sung sướng giàu sang, có con thi đỗ cao

- Thìn, Tỵ: vợ chồng ăn ở hiền lương thì đặng phú quý và nhiều con, nếu thất đức thì ắc phải nghèo nàn

- Ngọ: tự mình lập thân chẳng cậy nhờ ai, khoa danh hiển đạt, lộc hưởng tự nhiên

- Mùi, Thân: đời vợ trước không đặng vẹn bền, đời vợ sau mới đặng giai lão

- Dậu: lúc đầu hòa hiệp, về sau có phần khó khăn, trước nghèo sau khá

- Tuất, Hợi: đời vợ trước chẳng đặng trọn tình, lấy vợ sau mới đặng vững bền và sanh đặng quý tử (con thảo)

8. Trai có chữ Tân lấy:
- Tý: nếu có vợ sớm thì dẫu có con cũng không thành đạt, hay là sanh con khó nuôi đến lớn, lấy vợ sau mới đại lợi

- Sửu, Dần: không được hào con, sự làm ăn trước thành sau suy

- Mẹo: tự nhiên phú quý, nhưng có con thi đỗ thì chết, trước nghèo sau giàu

-  Thìn, Tỵ: sanh con gái dễ nuôi hơn con trai, đặng của cải quan lộc

- Ngọ: sự làm ăn hoàn toàn thạnh vượng, sanh con gái thì đặng hiếu thảo

- Mùi, Thân: trước giàu sang sau lại hóa ra nghèo, con cái khó nuôi, lúc tuổi già có bịnh tật liên miên

- Dậu: công danh toại nguyện, được giàu sang nhưng vất vả, có con khó nuôi đến lớn

- Tuất, Hợi: có vợ gặp sanh sản khó, vợ chồng bất chánh

9. Trai có chữ Nhâm lấy:

- Tý: vợ chồng sẽ có bịnh tật, thường gặp sự thưa kiện, dẫu sanh con trai hay con gái cũng không vẹn toàn

- Sửu, Dần: sanh nhiều con gái, nếu có con trai dẫu có thi rồi cũng thất chức

- Mẹo: sanh con trai hay gái cũng đều vẹn toàn, song chẳng nhờ con, có thi đỗ cao cũng không đặng chức phận

- Thìn: về sau phải chịu cảnh nghèo khổ, mặc dầu thuở trước đã giàu sang, trở về già thường mắc bịnh tật

- Tỵ: dầu đặng giàu sang nhưng sanh con cũng khó nuôi được (thất hào con), từ 40 tuổi trở lên lập nghiệp khó khăn, lấy vợ sau mới yên vui được

- Ngọ: tuổi trẻ làm ăn được thạnh vượng, con gái hay trai đều song toàn, nhưng từ 40 tuổi trở về sau thì mắc bịnh tật không toàn

- Mùi: tự nhiên có lộc và quan chức, tuổi già có mắc tật bịnh

- Thân: sanh con chẳng toàn, được giàu sang song chẳng đặng thọ

- Dậu: tình vợ chồng không toàn vẹn, có nhiều sự gây gỗ trong gia đình

- Tuất, Hợi: được phú quý thịnh vượng, đông con cái và nhiều lộc trời ban

10.Trai có chữ Quý lấy:

- Tý: đặng giàu sang, con cái thi đỗ cao, nếu tha phương thì có nhiều đại lợi

- Sửu, Dần: có vợ ở xa xứ, đặng phú quý đại lợi, học hành thi đỗ

- Mẹo: ăn ở lúc nhở thì hợp nhau, lớn ắt phải xa lìa, có chức vị quan tước

- Thìn, Tỵ: đặng phú quý đại lợi, lấy vợ ở xa xứ rất tốt

-  Ngọ: trước nghèo nàn, sau sẽ đặng phú quý, đại lợi, nhiều của cải, con cháu thi đỗ cao

- Mùi, Thân: đặng quan tước cao, công thành danh toại

- Dậu: dầu có chức tước cũng không đặng trọn vẹn, chẳng việc gì đặng toại nguyện

IV. BÍ QUYẾT TỬ VI BẠN CẦN BIẾT.
Ngũ Hành Nạp Âm
Ngày xưa thời gian được ghi chép bằng cách ghép tên của 10 thìên Can va 12 Địa Chi, Can Dương thì ghép với Chi Dương, Can Âm thì ghép với Chi Âm, và với cách ghép như vậy thì ta sẽ có 60 tên khác nhau. Năm tháng ngày giờ đều có hành của nó, và hành đó ngũ tóm tắt trên một bảng gọi là Lục Thập Hỏa Giáp. Cứ hai năm có cùng một hành, nhưng khác nhau về yếu tố Âm Dương, nghĩa là một năm Âm và một năm Dương có cùng một hành.

Khi Can va Chi phối hợp với nhau thì một thứ ngũ hành mới phát sinh gọi là ngũ Hành Nạp Âm, kết hợp Can Dương với Chi Dương, Can Âm với chi Âm, bắt đầu từ Giáp Tí đến Qúi Hợi có 30 ngũ hành nạp âm. Cần chú ý là với kết hợp như trên thì mỗi Chi đều có đủ ngũ hành, tùy theo Can mà có các hành khác nhau.

Ví dụ:
Tí thì có Giáp Tí hành Kim, Mậu Tí Hỏa, Nhâm Tí Mộc, Bính Tí Thủy, Canh Tí Thổ. 
Mỗi hành đều được phân thành sáu lọai khác nhau, và sáu lọai hành riêng biệt đó là kết quả của sự kết hợp của 12 chi với sáu Can, chứ không kết hợp đủ mười Can, bởi vì Chi Dương thì chỉ kết hợp với Can Dương, Chi Âm thì kết hợp với Can Âm.

Theo nhạc điệu thì giống Cung thuộc Thổ, Chủy thuộc Hỏa, Thương thuộc Kim, Vũ thuộc Thủy, và Giốc thuộc Mộc. 
Đem phối hợp Can Chi từng năm với 5 âm trên, rồi lấy hành Âm đó sinh ra làm hành năm. Mỗi năm lại bị chi phối bởi 12 luật, mỗi luật chứa năm âm, vì vậy 5 âm thuộc 5 hành cơ bản biến thành 60 hành chi tiết của năm hành chính. 

Ví dụ:
Hai năm đầu tiên là Giáp Tí và Ất Sửu mang âm Cung thuộc Thổ. Thổ sinh Kim, như vậy hai năm trên thuộc hành Kim, nhưng là Hải Trung Kim. Hành đó là hành nạp âm của hai năm Giáp Tí và Ất Sửu. 
Việc nạp âm cho vòng Giáp Tí phải tính tóan rất phức tạp, nên ngày nay người ta đều sử dụng bản tính toán hành nạp Âm của năm từ xưa để lại

Giải thích ngũ hành Nạp Âm
Để giải thích phương pháp tìm ra hành ghi trên bảng đó, cổ nhân có giải thích như sau: Khí Kim sinh tụ phương Khôn, tức là cung Thân trên thiên bàn, đi sang Nam thành Hoả, qua Đông thành Mộc rồi trở về Bắc thành Thủy, rồi hoá Thổ về Trung Ương.

Hành khí trên được sinh ra do sự phối hợp giữa Âm và Dương (thành ra ta cứ hai năm Dương va Âm thì có chung một hành, Dương ghi trước, Âm ghi sau) và theo nguyên tắc Âm Mẹ) Dương Cha) phối hợp cách bát sinh tử (con), nghĩa là sau tám năm thì có một hành mới được sinh ra theo qui tắc sinh ra như bên trên đã đề cập (Kim sinh rồi thì kế đến là Hỏa được sinh, rồi Mộc, Thủy, Thổ rồi lại sinh tiếp Kim theo chu kỳ khép kín).

Ví dụ:
Bắt đầu từ hai năm Giáp Tí (Dương) và Ất Sửu (Âm) ta có hành Kim, thì cứ cách 6 năm Nhâm Thân va Qúi Dậu ta cũng có hành Kim, sáu năm sau tức là năm Canh Thìn Tân Tỵ cung là hành Kim. Được ba lần hành Kim thì đến hành Hỏa. 

Như vậy Mậu Tí Kỷ Sửu là Hỏa, cách 6 năm là Bính Thân Đinh Dậu là Hỏa, cách 6 năm đến Giáp thìn Ất Tỵ là Hỏa. Sau 3 lần Hỏa thì đến Mộc. 

Như vậy Nhâm Tỵ, Qúi Sửu là Mộc, 6 năm sau Canh Thân Tân Dậu là Mộc, rồi Mậu Thìn Kỷ Tỵ là Mộc. Sau 3 lần Mộc là Thủy. Rồi sau ba lần Thủy là Thổ, tiếp tục làm như thế ta được các hành trên bảng lục Hoa giáp.
Có sách ghi rõ ràng: Khí phát tụ phương Đông và đi về huớng tay mặt: Mộc truyền qua Hỏa, Hỏa truyền qua Thổ, Thổ truyền qua Kim, Kim truyền qua Thủy

Âm thì khởi từ phương Tây đi về hướng tay trái, nghĩa là năm Âm thì khởi tại Kim, đi về hướng tay trái: Kim truyền qua Hỏa, Hỏa truyền qua Mộc, Mộc truyền qua Thủy, Thủy truyền qua Thổ
Khí và Âm đi ngược chiều nhau thì mới sinh biến hoá

Theo phép nạp âm, ứng theo nhạc luật, Can Chi đồng lọai thì lấy nhau, cách bát thì sinh con. Khởi tính theo nguyên tắc trên thì phải bắt đầu từ Giáp Tí và Giáp Ngọ.

Giáp Tí và Ất Sửu đều thuộc Kim thượng nguồn Giáp Tí (Dương) lấy vợ là Ất Sửu (Âm) cách bát sanh con là Nhâm Thân thuộc Kim trung nguồn (Tử Giáp (???) là vị trí thứ nhất, đếm thuận đến vị trí thứ chin gọi là cách bát). Nhâm Thân và Qúi Dậu đều thuộc Kim trung nguồn, Nhâm Thân (Dương) lấy vợ Qúi Dậu (Âm), cách bát thì sanh cháu là Canh Thìn. Canh Thìn và Tân Tỵ đều là Kim hạ nguồn.

Đến đây thì Kim tâm nguồn hết rồi nên đi về hướng tay trái truyền qua Hỏa ở phương nam. Canh Thìn và Tân Tỵ đồng lọai, đều là Kim hạ nguồn, lấy nhau cách bát truyền qua Mậu Tí là hành Hỏa thượng nguồn. 

Mậu Tí và Kỷ Sửu thì đồng lọai, đều thuộc Hỏa thựơng nguồn, lấy nhau, cách bát sinh con là Bính Thân. Bính Thân và Đinh Dậu thì đồng lọai, đều thuộc Hỏa trung nguồn lấy nhau, cách bát sanh cháu là Giáp Thìn. Giáp Thìn và Ất Ty đều là Hỏa hạ nguồn. Đến đây thì Hỏa tâm nguồn hết rồi nên đi về huớng tay trái truyền qua Mộc ở phương Đông.

Cứ theo nguyên tắc trên thì khi hết tâm nguồn lại đi về hướng tay trái, truyền qua (hết Mộc thì tới Thủy, hết Thủy thì tới Thổ), cho đến Bính Thìn và Đinh Tỵ thuộc Thổ hạ nguồn. Đi hết vòng ngũ hành này thì ta gọi là tiểu thành.

Bảng Tiểu Thành

- Giáp Tí, Ất Sửu Hải Trung Kim) sanh Nhâm Thân, Qúi Dậu (Kiếm Phong Kim)
- Nhâm Thân, Qúi Dậu (Kiếm Phong Kim) sanh Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim)
- Canh Thìn, Tân Tỵ Bạch lạp Kim) truyền Mậu Tí, Kỷ Sửu (Tích Lịch Hỏa)
- Mậu Tí, Kỷ Sửu (Tích Lịch Hỏa) sanh Bính Thân, Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa)
- Bính Thân, Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa) sanh Giáp Thìn, Ất Tỵ (Phú Đăng Hỏa)
- Giáp Thìn, Ất Tỵ (Phú Đăng Hỏa) truyền Nhâm Tí, Quí Sửu Tăng Đố Mộc)
- Nhâm Tí, Qúi Sửu Tăng Đố Mộc) sanh Canh Thân, Tân Dậu Thạch Lựu Mộc)
- Canh Thân, Tân Dậu Thạch Lựu Mộc) sanh Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Đại Lâm Mộc)
- Mậu Thìn, Kỷ Tỵ Ðại Lâm Mộc) truyền Bính Tí, Đinh Sửu Giang Hạ Thủy)
- Bính Tí, Đinh Sửu Giang Hạ Thủy) sanh Giáp Thân, Ất Dậu (Tuyền Trung Thủy)
- Giáp Thân, Ất Dậu (Tuyền Trung Thủy)sanh Nhâm Thìn, Qúi Tỵ (Trường Lưu Thủy)
- Nhâm thìn, Qúi Tỵ (Trường Lưu Thủy) truyền Canh Tí, Tân Sửu (Bích Thuợng Thổ)
- Canh Tí, Tân Sửu (Bích Thuợng Thổ) sanh Mậu Thận, Kỷ Dậu Đại Dịch Thổ)
- Mậu Thân, Kỷ Dậu Đại Dịch Thổ) sanh Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa Trung Thổ)
- Bính Thìn, Đinh Tỵ Sa Trung Thổ) truyền Giáp Tí, Ất Sửu Hải Trung Kim)

Tiếp tục bắt đầu từ Giáp Ngọ và Ất Mùi thuộc Kim thượng nguyên, lấy nhau cách bát thì sanh con. Khi đến Kim hạ nguuyên thì lại đi về phía tay trái, lần lượt truyền qua Hỏa, rồi Mộc, Thủy, Thổ cho đến Bính Tuất và Đinh Hợi thì hết một vòng ngũ hành gọi là đại thành.

Bảng Đại Thành

- Giáp Ngọ, Ất Mùi Sa Trung Kim) sanh Nhâm Dần, Qúi Mão (Kim Bạch Kim)
- Nhâm Dần, Qúi Mão (Kim Bạch Kim) sanh Canh Tuất, Tân Hợi Thoa Xuyến Kim)
- Canh Tuất, Tân Hợi Thoa Xuyến Kim) truyền Mậu Ngọ, Kỷ Mùi (Thiên Thuợng Hỏa)
- Mậu Ngọ, Kỷ Mùi (Thièn Thuợng Hỏa)sanh Bính Dần, Đinh Mão (Lư Trung Hỏa)
- Bính Dần, Đinh Mão (Lư Trung Hỏa) sanh Giáp Tuất, Ất Hợi (Sơn Đầu Hỏa)
- Giáp Tuất, Ất Hợi (Sơn Đầu Hỏa) truyền Nhâm Ngọ, Quí Mùi (Dương Liễu Mộc)
- Nhâm Ngọ, Quí Mùi (Dương Liễu Mộc) sanh Canh Dần, Tân Mão (Tùng Bá Mộc)
- Canh Dần, Tân Mão (Tùng Bá Mộc) sanh Mậu Tuất, Kỷ Hợi (Bình Địa Mộc)
- Mậu Tuất, Kỷ Hợi (Bình Địa Mộc) truyền Bính Ngọ, Đinh Mùi (Thiên Hà Thủy)
- Bính Ngọ, Đinh Mùi (Thiên Hà Thủy) sanh Giáp Dần, Ất Mão ( Ðại Khê Thủy)
- Giáp Dần, Ất Mão Ðại Khe Thủy) sanh Nhâm Tuất, Qúi Hợi Ðại Hải Thủy)
- Nhâm Tuất, Qúi Hợi Ðại Hải Thủy) truyền Canh Ngọ, Tân Mùi (Lộ Bàng Thổ)
- Canh Ngọ, Tân Mùi (Lộ Bàng Thổ) sanh Mậu Dần, Kỷ Mão (Thành Đầu Thổ )
- Mậu Dần, Kỷ Mão (Thành Đầu Thổ ) sanh Bính Tuất, Đinh Hợi(Ốc Thuợng Thổ)
- Bính Tuất, Đinh Hợi (Ốc Thuợng Thổ) truyền Giáp Ngọ, Ất Mùi (Sa Trung Kim)
Ghi chú: Có sách ghi Tùng Bách Mộc thay vì Tùng Bá Mộc, Lộ Trung Hỏa thay vì Lư Trung Hoả, Đại Trạch Thổ thay vì Đại Dịch Thổ

Con Số & Ngũ hành

Sinh - Khắc của ngũ hành Nạp Âm
Qui luật sinh khắc của ngũ hành nạp âm có khác với ngũ hành chánh, không phải cứ khắc là xấu.
Ngũ hành nạp âm khắc với nhau:
- Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì khắc hành Mộc, và không sợ Hỏa khắc, trái lại cần nhờ Hỏa mỗi trở nên hữu dụng (trở thành khí cụ) nhưng nếu lại rơi vào trường hợp Can Chi thiên Khắc, Địa Xung thì lại xấu (Ví dụ Nhâm Thân, Qúi Dậu là Kiếm Phong Kim gặp Bính Dần, Đinh Mão là Lư Trung Hỏa thì Hỏa khắc Kim, Nhâm Qúi hành Thủy khắc Bính Đinh hành Hỏa (tức là thiên khắc), Thân và Dần, Dậu và Mão thì xung nhau (tức là Địa Xung) nên khắc xấu.

- Hải Trung Kim, Bạch lạp Kim, Thoa Xuyến Kim sợ bị Hỏa khắc
Có sách ghi rằng: Bạch lạp Kim, Kim Bạch Kim đều kị Hỏa, còn Hải Trung Kim và Sa Trung Kim thì Hỏa khó khắc, duy chỉ sợ có Tích Lịch Hỏa. Riêng Kiếm Phong Kim và Thoa Xuyen Kim thì phải nhờ Hỏa lửa) tôi luyện mới nên lợi khí.
- Phú Đăng Hỏa, Lư Trung Hỏa và Sơn Đầu Hỏa thì sợ bị Thủy khắc Thiên Thượng Hỏa, Tích Lịch Hỏa và Sơn Hạ Hỏa thì không kị Thủy khắc, nếu được Thủy khắc thì lại tốt, một đời y lộc đầy đủ, gần gũi bậc quyền quí.
- Tất cả các lọai Mộc đều sợ bị Kim khắc, Sa Trung Kim và Kiếm Phong Kim thì khắc mạnh hành Mộc, trừ có Bình Địa Mộc không sợ Kim khắc, nếu không có Kim khắc thì lại khó cầu công danh phú qúi
Có sách ghi rằng: Tùng Bá Mộc, Dương Liễu Mộc, Tăng Đố Mộc, Thạch Lựu Mộc đều kị Kim nhất là Kiếm Phong Kim, chỉ có Bình Địa Mộc và Đại Lâm Mộc là không sợ Kim vì phải nhờ Kim đao mới được thành gia dụng
- Thiên Hà Thủy và Đại Hải Thủy thì không sợ bị Thổ khắc, trừ khi rơi vào trường hợp Can Chi thiên khắc Đia Xung. Các hành Thủy khác đều sợ bị Thổ khắc. Nếu bị Thổ khắc thì một đời khó cầu y lộc.
- Lộ Bàng Thổ, Đại Dịch Thổ va Sa Trung Thổ khong sợ bị Mộc khắc, nếu được Mộc khắc thì càng tốt, cuộc sống cao sang, thì đậu dễ dàng. Các thứ Thổ còn lại thì sợ bị Mộc khắc.
Trong tất cả trường hợp, nếu rơi vào trường hợp sợ bị khắc, mà còn bị thiên khắc Đia Xung thì càng xấu
Có sách ghi rằng: Thành Đầu Thổ, Ốc Thuợng Thổ và Bích Thuợng Thổ đều không kị Mộc, riêng Sa Trung Thổ, Đại Trạch Thổ và Lộ Bàng Thổ đều kị Mộc, nhất là Ðại Lâm Mộc và Bình Địa Mộc ngũ hành nap Âm tị hoà (đồng hành)

Trong trường hợp ngũ hành nạp âm tị hoà, thì có trường hợp tốt, có trường hợp xấu trường hợp tốt:
Trong hai bản tiểu thành va đại thành ở trên, khi rơi vào trường hợp sanh con thì tốt nhất đại kiết), sanh cháu thì tốt nhì (thứ kiết). Nếu xét thêm sự sinh khắc giữa Can Chi với nhau, nếu hàng Can tương sinh, hàng Chi tam hợp thì lại càng gia tăng sự tốt đẹp.

Ví dụ: 
- Giáp Tí, Ất Sửu Hải Trung Kim) sanh Nhâm Thân, Qúi Dậu (Kiếm Phong Kim).
- Nhâm Thân, Qúi Dậu (Kiếm Phong Kim) sanh Canh Thìn,Tân Tỵ Bạch lạp Kim). 

Như vậy thì sáu hành trên đều là hành Kim. Giáp hành Mộc, Nhâm hành Thủy, Thủy sanh Mộc. Thân Tí Thìn thì thuộc tam hợp Thủy. 
Như vậy đây là trường hợp sanh con, lại có hàng Can tương sinh, hàng chi tam hợp nên rất tốt. Tương tự Ất Sửu và Qúi Dậu cũng rơi vào trường hợp trên. 

- Nhâm hành Thủy, Canh hành Kim, Kim sanh Thủy. Thân Tí Thìn thuộc tam hợp Thủy. Đây là trường hợp sanh cháu, lại có hàng Can tương sinh, hàng Chi tam hợp nên rất tốt, chỉ thua trường hợp sanh con.

Bởi thế người ta nói:
Lưỡng Hỏa thành Viêm (sức nóng)
Lưỡng Mộc thành Lâm (rừng)
Lưỡng Thổ thành Sơn (núi)
Lưỡng Kim thành khí (món đồ dùng)
Lưỡng Thủy thành Giang (sông)

Khi không rơi vào trường hợp sanh con, sanh cháu như đã viết trong bảng thì cần xét xem hàng Can có khắc nhau, hàng Chi có xung nhau không. Nếu bị cả thiên khắc Địa xung thì hai hành gặp nhau sẽ xấu nhất, còn nếu chỉ có bị Thìên Khắc hay Địa xung thì cũng xấu nhưng không đáng quá lo ngại

Ví dụ: Mậu Tí, Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa. Mậu Ngọ, Kỷ Mùi là Thiên Thuợng Hỏa. Mậu Kỷ hành Thổ. Tí và Ngọ xung, Sửu và Mùi xung thì rơi vào trường hợp Địa Xung xấu

Bởi thế người ta nói:

Lưỡng Kim, Kim khuyết (Càn + Càn: bị sứt mẻ)
Lưỡng Mộc, Mộc chiết (Tốn + Tốn: bị gãy)
Lưỡng Hỏa, Hỏa diệt (Ly + Ly: bị tàn lụi)
Lưỡng Thủy, Thủy kiệt (Khảm + Khảm: bị hết nước)
Lưỡng Thổ, Thổ liệt (Cấn + Cấn; Khôn + Khôn: bị cạn khô)

Có người ghi rằng:

- Sa Trung Kim (Giáp Ngọ, Ất Mùi) và Kiếm Phong Kim (Nhâm Thân, Qúi Dậu) gặp nhau thì tốt, gọi là Lưỡng Kim thành khí
- Bình Địa Mộc (Mậu Tuất, Kỷ Hợi) và Đại Lâm Mộc (Mậu Thìn, Kỷ Tỵ) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Mộc thành Lâm)
- Thiên Hà Thủy (Bính Ngọ, Đinh Mùi) và Đại Hải Thủy (Nhâm Tuất, Quí Hợi) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Thủy thành Giang)
- Lư Trung Hỏa (Bính Dần, Đinh Mão) và Phúc Đăng Hỏa (Giáp Thìn, Ất Tỵ) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Hỏa thành Viêm)
- Bích Thuợng Thổ (Canh Tí, Tân Sửu) và Đại Trạch Thổ Mậu Thân, Kỷ Dậu) gặp nhau thì tốt (Lưỡng Thổ thành Sơn)

Chú ý: Có sách còn cho rằng hai hành cùng với nhau, hành cả hai đều yếu gặp nhau thì tốt, cả hai đều mạnh gặp nhau thì xấu.

Ví dụ:
 Lư Trung Hoả gặp Phú Đăng Hỏa thì tốt, còn Thiên Thuợng Hỏa gặp Tích Lịch Hỏa thì xấu. Điều này có lẽ không đúng

SINH khắc ngũ hành NẠP âm THEO QUAN NIỆM của THiỆU VĨ HOA

- Hỏa khắc Kim nhưng Hỏa không dễ khắc Hải Trung Kim hay Sa Trung Kim (là Kim ở đáy biển hay Kim ở trong đất cát).
Tuy nhiên, Hải Trung Kim và Sa Trung Kim thì lại sợ Hỏa Thiên Lôi (Tích Lịch Hỏa) vì Hỏa Thiên Lôi có thể đánh xuống đáy biển, đánh xuống tận tầng đất sâu. 

- Kiếm Phong Kim rất cần Hỏa vì có lửa luyện thì mới thành kiếm sắc.
- Bạch lạp Kim là Kim trên cây nến rất dễ bị Hỏa khắc Kim có thể khắc Mộc, nhưng gỗ trong cột phần lớn lại cần có Kim chế ngự. Do đó Kim không thể khắc Mộc vượng, trừ khi Mộc yếu mà gặp Kim vượng thì bất lợi.
Nói chung trong điều kiện bình thuờng thì Đại Lâm Mộc và Bình Địa Mộc không dễ bị Kim khắc. Mộc sợ nhất là Kiếm Phong Kim vì đây là Kim của vũ khí.

- Mộc có thể khắc Thổ, Thổ trong đồng ruộng phần nhiều là Thổ vượng, rừng cây thưa (Mộc suy) nếu không thì không nuôi được mùa màng, Mộc suy Thổ vượng thì Mộc không thể khắc Thổ. 

- Mộc vượng Thổ suy thì tất sẽ bị khắc. Nói chung Thổ trên tường (Bích Thuợng Thổ), Thổ ở bãi ruộng Đại Trạch Thổ) không dễ bị Mộc khắc. Nhưng Thổ sợ nhất là Đại Lâm Mộc và Bình Địa Mộc khắc.

- Thổ có thể khắc Thủy. Thủy nhiều, Thủy vượng bao vây Thổ, có thể tưới ruộng, làm nhuận vạn vật, nếu Thổ suy không khắc được vượng Thủy. Nếu Thủy suy, Thổ vượng tất Thủy sẽ bị khắc. 

- Thủy sợ Thổ khắc nhưng Thiên Hà Thủy, Đại Hải Thủy (Thủy ở đại Dương) không những không sợ Thổ khắc mà còn khắc ngược lại Thổ.

- Thủy có thể khắc Hỏa. Hỏa nhiều, Hỏa vượng thì cần Thủy chế.
- Hỏa vượng, Thủy suy thì Hỏa không sợ Thủy khắc.
- Thủy vượng, Hỏa suy tất sẽ bị khắc.

Có thể nói Hỏa Thiên Lôi(Tích Lịch Hỏa) không những không sợ bị Thủy khắc, ngược lại trời mưa càng to, sét còn có thể chui xuống đáy biển để khắc Thủy.

HÓA GIẢI BÁT QUÁI XẤU
Vd1: Chồng Cung Khảm + Vợ Cung Cấn (Ngũ Qủi): Sanh Con Lấy Cung TốnSanh Khí (Hóa Giải Ngũ Qủi).

Vd2: Chồng Chung Khảm + Vợ Cung Khôn (Tuyệt Mệnh): Chọn Năm Sinh Con Có Cung Chấn (Thiên Y, Hóa Giải T.mệnh).

Vd3: Chồng Khảm + Vợ Đoàn (Họa Hại): Chọn năm Sinh Con Có Cung Khảm (Phục Vị, H.giải ). 

Vd4: Chồng Khảm + Vợ Cấn (Lục Sát): Chọn Năm Sinh Con Có Cung Ly (Phước Đức, H.giải).

=> Các cung khác cũng áp dụng như thế
- Ngũ Quỷ + Sinh Khí: Hóa giải
- Tuyệt Mệnh + Thiên Y: Hóa giải
- Lục Sát + Phúc Đức: Hóa giải
- Họa Hại + Phục vị: Hóa giải



=>*Bình Chú (Đây là kết quả chính xác theo nghĩa Dịch lý khi so cung ngày với ngày30%, cung ngày với cung năm30%, cung Năm -Năm ứng 40%...)

Chung Thủy

Chung thủy là một đức hạnh giữ gìn hạnh phúc gia đình. Dù cho hoàn cảnh nào khó khăn hay phú quý, sang hay hèn, xa hay gần, hiện tại hay tương lai, khỏe hay bệnh, trẻ hay già yếu,...họ luôn vẫn thương yêu nhau, một lòng với nhau, cùng nhau đồng lòng giải quyết mọi vấn đề thì những người như vậy gọi là chung thủy.


 
- Không nên quan hệ bất chánh với người đã có gia đình, phá vỡ và gây xáo trộn hạnh phúc gia đình của người khác. Người có vợ chồng rồi thì không nên la cạ với người khác phái khác. Đây là đức hiếu sinh chung thủy.

- Không nhớ/ghĩ hoặc tìm đến người yêu cũ. Khi đã có gia đình rồi thì chỉ xem những người yêu cũ là bạn bè thôi. Không hối tiếc hoặc nghĩ đến những kỹ niệm đẹp lúc xưa. Chỉ cần nghĩ đến là đã đánh mất đức chung thủy.

-  Sống yêu thương là mang niềm vui và hạnh phúc đến cho nhau, mà không đòi hỏi người khác một sự đáp trả nào. Người sống thương yêu lấy niềm vui và hạnh phúc của người khác làm niềm vui và hạnh phúc cho mình, như một người mẹ thương con chỉ tìm mọi cách làm cho con mình vui và hạnh phúc, chính khi thấy con mình hạnh phúc thì người mẹ vui và hạnh phúc, kể cả khi con cái đã có gia đình.

Trước khi nam nữ đến với nhau, họ có lối sống đẹp, là tìm cách tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau, sẵn sàng tha thứ bỏ qua mọi lỗi lầm của nhau và không bao giờ nhắc đến lỗi lầm, biết sống nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng vui vẻ vào từng hành động, lời nói, yêu cầu của nhau. Quan tâm nhau như những người bạn tri kỷ, do vậy mà tình yêu thương nam nữ trước khi cưới rất đẹp.

Đến khi cưới nhau rồi thì tình thương yêu như biến mất, sự nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng cũng không còn, ai cũng giữ lập trường riêng của mình mà không sống tùy thuận, lòng thương yêu tha thứ cũng không có. Ngồi chờ xem người kia có làm đúng như những lời đã hứa thương yêu trước khi cưới hay không? Đánh giá, nhận xét rồi phán xét đúng sai phải trái, thật thà hay lừa dối.

Chính vì vậy mà tình thương yêu bị đánh mất. Ý nghĩa của tình yêu là đem niềm vui và hạnh phúc đến cho nhau đã bị quên đi mà không biết. Sự ngồi chờ và mong đợi người khác đem hạnh phúc đến cho mình không thể là hạnh phúc thật sự được. Cho là nhận, đó là một câu nói đơn giản, nhưng đầy ý nghĩa cao quí tuyệt vời. Người muốn có hạnh phúc thì hãy mang hạnh phúc đến cho người khác. Nếu tất cả những cặp vợ chồng trên thế gian này hiểu được điều này thì sẽ không còn có sự chia tay hay ly dị. Đức này là đức thương yêu nhẫn nhục tùy thuận bằng lòng.

Ai sống luôn cung kính và tôn trọng mọi người thì sẽ giữ được hạnh phúc lâu dài. Từ tiếng nói cám ơn, xin lỗi cho đến từng hành động đưa hai tay ra nhận bất cứ vật gì đều là những hành động cung kính và tôn trọng không thể thiếu được trong một gia đình. Chúng ta không nên xem thường những hành động nhỏ nhặt đó hay quen mặt rồi thì đánh mất đi tiếng nói cám ơn khi nhờ ai đưa vật gì.

Trong gia đình đức nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng là không thể thiếu được. Chúng giúp cho gia đình hạnh phúc, tránh tranh cãi đúng sai, phải trái, tránh lớn tiếng nhau. Do đó ba đức này rất quan trọng.

Chúc các bạn hạnh phúc trong tình yêu!


 

1 nhận xét: