- Cách dùng thước Lỗ Ban

Hệ thống thước đo được sử dụng trong thời Nguyễn (1802 - 1945), thời kỳ chế độ quân chủ cuối cùng tại Việt Nam, cũng là hệ thước đo còn lưu truyền phần nào hiện nay. Để đo đất - làm nhà - dựng cửa, thời Nguyễn phổ biến hệ thước đo ruộng đất (điền xích) và hệ thước mộc (mộc xích).

Loại thước lỗ ban mà hiện nay ta biết là thuộc hệ thước mộc, vốn được dùng chủ yếu trong các công trình kiến trúc truyền thống.

Hiện nay tồn tại hai nhóm thước chính, đó là thước kỹ thuật và thước tín ngưỡng (hay còn gọi là thước lỗ ban).

Theo các nghiên cứu của tác giả Phan Thanh Hải công bố trên tạp chí Kiến Trúc số 3/2003 (hội Kiến trúc sư Việt Nam) thì thước lỗ ban khá phức tạp bởi có rất nhiều loại với quan niệm và cách sử dụng khác nhau.

Lỗ Ban là tên một người thợ mộc Trung Hoa cổ đại, tương truyền đã phát minh ra cưa, đục và các dụng cụ nghề mộc trong đó có cây thước đo (còn có tên gọi môn xích, dùng để đo cửa).

Thước dài 46cm, bề mặt chia làm 8 trực, giữa các trực khắc các chữ tài - đại - tinh, bệnh - thổ - tinh, ly - thuỷ - tinh, nghĩa - thuỷ - tinh, quan - kim - tinh, chấp - hoả - tinh, hại - hoả - tinh, cát - kim - tinh, đồng thời kèm theo các câu về điều tốt xấu (cát, hung).

Trong thời cổ, ở Trung Quốc và các nước ảnh hưởng văn hoá Hán đều sử dụng thước lỗ ban với nhiều biến dạng.

Hiện nay có hai loại thước lỗ ban chính, sử dụng ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc, Đài Loan, Hong Kong, đó là thước trực 8 (bát môn xích) và thước trực 10 (thập môn xích) với giá trị khác nhau. Và cả hai loại thước này hiện đều cùng in trên cây thước sắt cuốn bán phổ biến trên thị trường, có thước in chữ Hoa, có thước đã được dịch in luôn chữ Việt (phiên âm) cho dễ đọc!



Nguyên tắc lọt lòng khi đo chiều rộng và chiều cao của cửa 
1. Loại thước trực 8 dài 42,8cm (sau đó là lặp lại), 8 trực là: tài - bệnh - ly - nghĩa - quan - chấp (hoặc nạn) - hại - bản (hoặc mạng); mỗi trực lại chia thành bốn phần chia làm hai khoảng (tên trực nằm giữa), mỗi khoảng ghi các chữ, ví dụ như trong khoảng quan có ghi: thuận lợi, hoành tài, tấn ích, phú quý.

2. Loại thước trực 10 dài 38,8cm; 10 trực là: đinh - hại - vượng - khổ - nghĩa - quan - tử - hưng - thất - tài. Mỗi trực cũng lại chia thành các khoảng ghi các chữ, ví dụ như khoảng đinh ghi: phúc tinh, cập đệ - tài vượng, đăng khoa.

Các trực tốt như tài, nghĩa, quan... được in màu đỏ, xấu như bệnh, tử, hại... thì in màu đen, cho nên nhiều người sử dụng thước theo cách dễ hiểu: thấy kéo thước vô cung đỏ là tốt!

Thực tế vẫn còn nhiều biến thể của "thước lỗ ban", có cái dài 43,9cm, có cái dài đến 56cm (thước Chu Nguyên xích tại bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế). Do vậy có thể tạm kết luận: các loại thước này mang tính tín ngưỡng dân gian là chính, được lưu truyền sử dụng theo kiểu "có thờ có thiêng - có kiêng có lành". Vấn đề là gia chủ và nhà chuyên môn cần xác định rõ việc đo đạc trong xây dựng một cách khoa học, đảm bảo kỹ thuật - mỹ thuật và có sự gia giảm linh hoạt, không để cho những áp đặt vu vơ làm sai lệch chất lượng của công trình.

Sử dụng thước thế nào?
Nhiều gia chủ hiện nay hay mua cây thước kéo có in các vạch đen đỏ, gặp bất kỳ chỗ nào trong ngôi nhà cũng... kiểm tra, rồi đòi hỏi mọi thứ phải vào được cung tốt (màu đỏ), gây khó khăn cho nhà chuyên môn, ảnh hưởng đến kỹ thuật và mỹ thuật công trình. Vấn dề nằm ở chỗ cần áp dụng kích thước lỗ ban cho những khu vực, chi tiết nào trong nhà để đạt sự hợp lý và đảm bảo nguyên tắc phong thuỷ, không sa đà vào tiểu tiết mê tín.

Vị trí áp dụng

Có ba nguyên tắc làm cơ sở cho việc áp dụng kích thước phong thuỷ trong xây cất. Đó là quan điểm dương trạch khí, các cấp độ môn - táo - chủ, và nguyên tắc hình phễu.
a. Dương trạch khí: đảm bảo nạp khí và thoát khí, thông qua hệ thống cửa, tương quan cửa với toàn nhà. Như Lão Tử thuở trước từng nói: vo đất làm bình cốt để dùng phần rỗng bên trong. Hay quan điểm kiến trúc hiện đại: khoảng không giữa các bức tường quan trọng hơn là bản thân các bức tường! Tức là, con người sống trong môi trường thiên nhiên và nhân tạo, tìm kiếm kích thước hài hoà hợp lý phải căn cứ vào khoảng trống, ở phần rỗng chứ không phải là các phần đặc!

b. Môn - táo - chủ: ba cấp độ này cũng ưu tiên đi từ môn (kích thước hệ thống cửa) đến táo (kích thước bếp) và sau cùng là chủ (các kích thước liên quan đến chủ nhân) trong đó chủ yếu là môn (thước lỗ ban vốn được gọi là môn xích). Còn táo và chủ chỉ cần tương quan tỷ lệ và phù hợp nhân trắc là đủ. Ví dụ kích thước bệ bếp phải vừa tầm người sử dụng, dù có "kéo vào cung đỏ" mà cao quá hay thấp quá cũng đều hỏng.

c. Nguyên tắc hình phễu: để tàng phong tụ khí thì luôn cần hệ kích thước cửa đảm bảo nguyên tắc từ ngoài vào trong theo hình phễu thu dần vào. Cửa cổng phải rộng và cao hơn cửa chính, cửa chính cao rộng hơn cửa phòng, cửa phòng ngủ hơn cửa phòng vệ sinh. Nguyên tắc này đảm bảo cửa nơi đối ngoại đông người nên rộng hơn cửa phòng vốn chỉ dùng đối nội.

Riêng với hệ cửa sổ (song khẩu) thì tránh khấp khểnh thiên lệch so với cửa chính để đảm bảo tính cân bằng. Cửa đi dẫn truyền khí, thiên về vật chất, cửa sổ điều tiết khí và cảnh quan (trong nhìn ra - ngoài nhìn vào) thiên về tinh thần. Khi cửa đi đóng (ví dụ vào ban đêm) thì cửa sổ chính là nguồn điều tiết thông thoáng và tầm nhìn, do đó kích thước cửa sổ không bắt buộc phải theo thước lỗ ban mà quan trọng là tương quan cửa sổ đối với nhà hay phòng.

Đo thông thuỷ hay phủ bì?

(Cửa có bản lề, móc khóa...cản khí, ta phải trừ đi phần cản. Kích thước lấy từ mép ngoài của các vật cản này)
Vì kích thước phong thuỷ áp dụng cho nội khí, tức là phải đo các khoảng lọt lòng thông thuỷ cho khí đi qua, tức là đo khoảng trống (phần tĩnh ổn định) chứ không phải đo cánh cửa (phần mở mang tính động). Cụ thể là đo phần lọt lòng nhỏ nhất của khuôn bao, nhiều thợ hay gọi là lọt lòng gió. Về chiều cao, cần tính và đo khoảng lọt lòng từ sàn hoàn thiện đến phần thấp nhất của khuôn bao bên trên. 

Những khung cửa không có cánh cũng đo phần lọt lòng nhỏ nhất và cố định như đã nêu trên. Đối với loại cửa vòm, chiều cao đo tính đến phần đỉnh vòm. Đối với cửa có phần lật hoặc cố định bên trên, kích thước phong thuỷ chỉ tính với phần khung có cánh mở được bên dưới. Cách tính này đảm bảo các bộ cửa đi theo ý đồ thẩm mỹ và tương quan với ngôi nhà, miễn phần mở để đi lại theo kích thước phong thuỷ, những phần chung quanh chỉ đóng vai trò như cửa sổ, lấy sáng và thông thoáng.

Cách tra thước Lỗ Ban

Trong địa lý cổ Phương Đông thực hành, thước Lỗ Ban là một yếu tố không thể tách rời. Để bạn đọc có thể hiểu rõ hơn và tự mình tìm được những kích thước hợp lý để sử dụng trong quá trình xây dựng nhà cửa, WEDO xin giới thiệu một phần cơ bản trong cách tra và toàn bộ các kích thước trong thước Lỗ Ban . Trước hết, WEDO xin phân tích một số vấn đề về nguồn gốc và phân loại kích thước Lỗ Ban.

- Địa lý cổ Phương Đông được hình thành trong quá trình phát triển hàng nghìn năm của nền văn hoá Trung Hoa. Thước Lỗ Ban hay các yếu tố địa lý thực hành khác đều được phát triển rộng rãi nhưng phụ thuộc trực tiếp vào điều kiện tự nhiên và tập quán sinh sống của con người của từng địa phương.

Ngày nay, vẫn xuất hiện song song ít nhất ba hệ thước Lỗ Ban. Các bạn có thể hiểu ba loại thước đó được hình thành và áp dụng cho ba vùng địa lý tiêu biểu là vùng lục địa, vùng hải đảo và các miền duyên hải ,vùng cao nguyên. Với điều kiện địa lý của Việt Nam phần lớn chúng ta sử dụng hệ thước của vùng lục địa. Các hệ thước này chỉ khác nhau duy nhất bởi số dư giữa các cung. Với kích thước này số dư là 6,525Các bạn chú ý! Chúng tôi chỉ đưa ra đây các kích thước lọt sáng cho cửa đi chính và các kích thước trong phòng.

Các bạn chỉ cần chọn các kích thước trong các cung có tên Thiên Lộc, Thiên Tài, Quý Nhân, Tể Tướng và tránh làm ở các kích thước có hại.

Kích thước lọt sáng (Thông thủy) bao gồm chiều rộng và chiều cao của phần lòng trong khuôn cửa.
 Để áp dụng các kích thước này cho các phần khác như bàn thờ, bàn làm việc v.v . 

Còn phải phụ thuộc vào một số yếu tố khác. Chúng tôi sẽ giới thiệu ở những bài viết khác.


ỨNG DỤNG CÁC CUNG TRÊN THƯỚC
Tài 財 - Bệnh 病 – Li 離 - Nghĩa 義 - Quan 官- Kiếp 劫 - Hại 害 - Bản 本

Trong mỗi cung đó lại chia thành 4 cung nhỏ mà chúng tôi sẽ giải thích cặn kẽ cho các bạn hiểu. Chú ý là chúng ta vẫn đang xem xét hàng chữ lớn.

· Cung thứ 1 (đỏ, tốt) – Tài 財 : tiền của, chia thành
- Tài Đức 財德 : có tiền của và có đức
- Bảo Kho 寶庫 : kho báu
- Lục Hợp 六合 : sáu cõi đều tốt (Đông-Tây-Nam-Bắc và Trời-Đất)
- Nghinh Phúc 迎福 : đón nhận phúc đến

· Cung thứ 2 (đen, xấu) – Bệnh 病 : bệnh tật, chia thành
- Thoái Tài 退財 : hao tốn tiền của, làm ăn lỗ lã
- Công Sự 公事 : tranh chấp, thưa kiện ra chính quyền
- Lao Chấp 牢執 : bị tù
- Cô Quả 孤寡 : chịu phận cô đơn
Cung thứ 3 (đen, xấu) – Li 離 : chia lìa, chia thành
- Trường Khố 長庫 : dây dưa nhiều chuyện
- Kiếp Tài 劫財 : bị cướp của
- Quan Quỉ 官鬼 : chuyện xấu với chính quyền
- Thất Thoát 失脫 : mất mát

· Cung thứ 4 (đỏ, tốt) – Nghĩa 義 : chính nghĩa, tình nghĩa, chia thành
- Thiêm Đinh 添丁 : thêm con trai
- Ích Lợi 益利 : có lợi ích
- Quí Tử 貴子 : con giỏi, ngoan
- Đại Cát 大吉 : rất tốt

· Cung thứ 5 (đỏ, tốt) – Quan 官 : quan chức, chia thành
- Thuận Khoa 順科 : thi cử thuận lợi
- Hoạnh tài 橫財 : tiền của bất ngờ
- Tiến Ích 進益 : làm ăn phát đạt
- Phú Quý 富貴 : giàu có

· Cung thứ 6 (đen, xấu) – Kiếp 劫 : tai họa, chia thành
- Tử Biệt 死別 : chia lìa chết chóc
- Thoái Khẩu 退口 : mất người
- Ly Hương 離鄉 : xa cách quê nhà
- Tài Thất 財失 : mất tiền của

· Cung thứ 7 (đen, xấu) – Hại 害 : thiệt hại, chia thành
- Tai Chí 災至 : tai họa đến
- Tử Tuyệt 死絕 : chết mất
- Bệnh Lâm 病臨 : mắc bệnh
- Khẩu Thiệt 口舌 : mang họa vì lời nói

· Cung thứ 8 (đỏ, tốt) – Bản 本 : vốn liếng, bổn mệnh, chia thành
- Tài Chí 財至 : tiền của đến
- Đăng Khoa 登科 : thi đậu
- Tiến Bảo 登科 : được của quý
- Hưng Vượng 興旺 : làm ăn thịnh vượng

CÁCH ĐO ĐẠC
Thước Lỗ Ban được sử dụng đo đạc trong xây dựng dương trạch (nhà cửa) và âm cơ (mộ phần). Ở đây chúng tôi chỉ bàn về xây dựng nhà cửa.

Trong nhà, cái quan trọng nhất là cửa nẻo, chỗ chúng ta hàng ngày vẫn đi qua lại.

Sách Đạo Đức Kinh, chương 11, Lão Tử có nói Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô, hữu thất chi dụng 鑿戶牖以為室當其無有室之用 nghĩa là Đục cửa và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được.

Khi đo cửa, các bạn nên nhớ chỉ đo khoảng thông thủy, nghĩa là tính từ mép trong của cửa, điều này rất quan trọng, vì nhiều khi các bạn chừa lỗ cửa đúng kích thước Lỗ Ban nhưng khi lắp cửa vào do có thêm các gờ đố cửa mà làm sai chệch cung tốt – xấu.

Cách thức đo là các bạn kéo thước từ mép cửa này sang mép cửa kia, nếu rơi vào cung đỏ là ta được kích thước tốt, rơi vào cung đen là kích thước xấu, đo cả chiều rộng lẫn chiều cao cửa.

Nhưng có một điều các bạn đặc biệt lưu ý, do thước Lỗ Ban của chúng ta sử dụng có thêm phần thước kết hợp, tức là phần thước hàng chữ nhỏ, nên có khi cửa đã lọt vào cung tốt ở hàng trên, hàng dưới lại là cung xấu và ngược lại. Đó chính là luật bù trừ trong vũ trụ, ta được ở mặt này lại mất ở mặt khác, không thể có cái gọi là hoàn hảo trên đời này.

Như vậy, để được một kích thước tốt, cần phải trên đỏ, dưới đỏ.
Ví dụ, cửa phòng bạn có kích thước 85 cm, nghĩa là lọt vào cung Hưng Vượng 興旺, màu đỏ / tốt nhưng đối chiếu hàng bên dưới lại lọt vào cung Tai Chí 災至, màu đen / xấu. Để khắc phục các bạn có thể nới rộng cửa ra từ 86 đến 89 cm chẳng hạn.

Cách sửa chữa khi cửa lọt vào cung xấu là các bạn có thể bào bớt cửa, đóng thêm nẹp, hoặc cùng lắm là làm lại khuôn cửa và cánh cửa mới cho đúng kích thước.

Ngoài cửa nẻo ra thì giường nằm và bàn làm việc cũng nên theo kích thước Lỗ Ban. Cách thức đo tương tự.


SỰ ỨNG NGHIỆM CỦA CÁC CUNG·
- Cung Tài 財: nghĩa là tiền của, ứng nghiệm tốt nhất với cổng lớn, nơi đón nhận của cải từ ngoài vào.

- Cung Bệnh 病: là đau bệnh, ứng đặc biệt vào nhà vệ sinh. Nơi này thường là góc hung (xấu) của nhà, cửa lọt vào chữ Bệnh sẽ thuận lợi cho bệnh tật sinh ra.

- Cung Ly 離: là chia lìa, rất kị cho cửa trong nhà. Cửa lọt vào chữ Ly, chồng thì làm ăn xa nhà, vợ gặp điều quyến rũ, con cái hoang đàng phá phách.

- Cung Nghĩa 義: rất tốt cho cổng lớn và cửa nhà bếp, cửa các phòng thông nhau thì không nên.

- Cung Quan 官: rất kị ở cổng lớn vì tránh chuyện kiện tụng ra chính quyền, nhưng lại tốt ở cửa phòng riêng vợ chồng vì sẽ sinh con quí tử.

- Cung Kiếp 劫: là bị cướp, tượng trưng cho tai họa khách quan đến từ bên ngoài khiến hao tổn tiền của. Tránh ở cổng lớn, nhất là các cửa hàng, tiệm buôn càng nên lưu ý.

- Cung Hại 害: tượng trưng cho mầm xấu nhen nhúm từ bên trong, kị ở các cửa phòng trong nhà.

- Cung Bản 本: thích hợp cho cổng lớn.


LỜI KẾT
Như vậy là chúng tôi đã trình bày cặn kẽ cây thước Lỗ Ban – một kinh nghiệm cổ truyền quí báu – hòng giúp các bạn tự mình có thể đo đạc tìm ra một kích thước tốt nhất cho cửa nẻo ngôi nhà.
Trong cuộc sống, họa phúc khôn lường, như câu chuyện Tái ông thất mã thì rõ ràng họa là chỗ dựa của phúc, phúc là chỗ nấp của họa. Dẫu biết vậy nhưng đã là con người ai không mong gặp chuyện phúc lành, may mắn tránh bớt điều tai ương, rủi ro.

Sử dụng thước Lỗ Ban cũng là vì lí do đó, các bạn nên nhớ rõ cho rằng một cây thước không thể quyết định được vấn đề họa phúc, nó chỉ tạo cho mình một sự vững tâm khi ra ngoài tiếp xúc với xã hội, chính sự vững tâm đó mới mang lại những cơ hội tốt lành cho bản thân.

Cuối cùng chúng tôi mong rằng các bạn sử dụng và yêu mến cây thước Lỗ Ban như một kinh nghiệm của ngày xưa, các bạn đừng quá tôn thờ đặt hết niềm tin vào nó để rồi biến nó thành một trò mê tín dị đoan.

Chúng tôi xin được mượn lời của Khổng Tử làm lời kết cho bài viết này, Công hồ dị đoan, tư hại dã dĩ 攻乎異端斯害也已 (Luận Ngữ, chương Vi Chính, tiết 16), nghĩa là Chuyên chú vào những điều dị đoan, chắc chắn có hại.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét