Kinh nghiệm phong phú. Cùng với sự tăng trưởng của tuổi tác, sự từng trải đường đời càng phong phú, thì lý tưởng, mục tiêu càng không ngừng được mở rộng. Trong suốt cả cuộc đời, tuổi thơ thường rất bình lặng, hạnh phúc. Ở thời thanh niên cần phải hết sức thận trọng trong lựa chọn tình cảm, gia đình, kiếm tiền và sự nghiệp. Nếu không sẽ khó bề thảnh thơi trong cả cuộc đời, đặc biệt là ảnh hưởng tới hạnh phúc, yên ổn đoạn cuối đời.
Nhiệt tình, hăng hái. Có đặc trưng tính cách là nhiệt tình chân thành, dũng cảm.
Với sự lựa chọn của mình, không được hời hợt, phiến diện trước khi đưa ra quyết định, một khi đã quyết định rồi thì không nên tùy tiện thay đổi, có gian khổ và mạo hiểm, nhưng do có niềm tin vững bền và lòng yêu nghề, khiến bản thân luôn “nói là làm, làm ắt có kết quả” và với ý chí kiên cường biến nó thành thực tiễn.
May mắn. Vận may không ít, rất thích dẫn dắt cuộc sống của mình bằng thái độ nhân sinh tích cực và lòng tiến thủ. Có thể nắm bắt thời cơ để quan sát thấu hiểu tình thế đang diễn ra, biết tránh nguy hiểm, một khi gặp cảnh dày vò hoặc khó khăn, có thể coi đó lại là một kinh nghiệm của cuộc sống, để tiếp tục tiến lên trên con đường dài vạn dặm. Tại thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời, biết thể xoay chuyển thời cơ, biến hung thành cát.
Đặc trưng tính cách của người thuộc tuổi Dần (Hổ) có thể được hiểu và diễn giải như sau:
Hổ thuộc ngôi thứ ba trong số 12 con giáp, tính độc lập và lòng tự tôn của người tuổi Dần đều rất cao, thích hành động một mình, không hoà đồng với quần chúng, thích người khác nể phục mình, thường làm anh cả là người che chở bảo vệ cho người bình thường. Nhưng làm việc lại nóng vội, lỗ mãng, cho nên hay làm lỡ việc, đó là một trong những nguyên nhân họ thường xuyên bị thất bại. Nhưng người tuổi Dần không thể thất bại mãi được, khi gặp khó khăn, cản trở hoặc thất bại, họ quyết đoán kịp thời, quyết tâm làm lại từ đầu, và đến khi nào thành công mới thôi.
Người tuổi Dần nhìn bên ngoài có vẻ sống rất độ lượng, nhưng ý chí rất kiên cường, có lòng nhân từ, có đức tính quên mình vì người, thích chơi trội, có tấm lòng nghĩa hiệp, thường để lại danh tiếng không tốt trong dân gian, nên hết sức lưu ý. Người sinh năm này luôn được mọi người kính trọng, là nữ thường thông minh, hiền lành. Người tuổi Dần thời trẻ vận đến, thời trung niên vận chìm nổi bất định, thay đổi khôn lường, sau thời trung niên gặp cơ hội tốt, cuối đời cũng có thể trở thành người đức cao vọng trọng.
Ngoài ra họ rất thích tranh luận với mọi người; không bao giờ chịu thua. Nếu muốn người tuổi Dần tin phục thì đó là chuyện rất khó thực hiện, là nam thì tính cách tương đối ngoan cố, hiếu thắng. Hay tranh chấp với người khác. Là nữ khá cẩn thận, trước khi làm việc gì cũng suy nghĩ thấu đáo, dù trong sự nghiệp hay trong cuộc sống, họ đều là người vợ hiền, người nội trợ đảm đang.
Người tuổi Dần là người nóng tính, dễ bị kích động, phán đoán của họ đôi khi không chính xác. Họ không ưa làm theo quy tắc, trừ khi quy tắc là do họ đặt ra. Đặc biệt họ là người rất hay thay đổi công việc, vì họ không thích đứng ỳ một chỗ hoặc phải chịu sự ràng buộc bên ngoài.
Họ rất có tinh thần chính nghĩa, rất ghét vòng vo, nhưng để cuộc sống được bình an và trôi qua một cách suôn sẻ, có khi phải kết hợp với một số đạo lý đối nhân xử thế trong xã hội.
Nhưng với cá tính của họ thì không thể làm được điều này, dù đối phương là cấp trên của họ, chỉ cần họ cho rằng đối phương có sai sót là thẳng thừng phê bình luôn.
Theo cách nhìn nhận của người tuổi Dần tất cả những trào lưu mới đều là sự tác quái của thế và lợi. Nhưng người này luôn cho rằng mình là người sáng tạo, người đặt ra chuẩn mực, họ luôn thích chạy trước thời đại, không thích theo sát trào lưu hiện thời.
Người tuổi Dần là người luôn cứng rắn trong công việc, dù trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm đến mấy họ cũng quyết không rút lui. Người này rất dễ bị ảnh hưởng bởi tính cách của bạn bè, cho nên thường khiến mình sa vào lối sống cuồng vọng tự đại mà không thể thoát ra được.
Người tuổi Dẩn không mấy hứng thú với tiền bạc, nói thế không có nghĩa là họ không có tiền, mà là họ không quá bận tâm đến chuyện tiền bạc họ thích có đủ tiền, thậm chí là rất nhiều, nhưng không thể hoàn toàn bị lu mờ bởi đồng tiền. Họ luôn nghĩ rằng, dù làm bất cứ việc gì cũng cần có đủ tiền, cho đến khi dùng hết tiền mới thôi.
Người tuổi Dần muốn gìn giữ sự chân thành, nhưng đôi khi môi trường xung quanh buộc họ phải phạm một số lỗi nhỏ. Họ không chịu nổi sự quyền uy hoặc sự bất công nào. Họ ghét sự bất công, họ có thể bất chấp mọi thứ để biện minh cho cách nghĩ của mình. Người này sinh ra luôn đề cao sự quyền uy, luôn muốn mình có địa vị cao trong xã hội và được nắm giữ quyền hành. Nhưng do bản tính hiếu động và thích thay đổi nên rất nhiều người sinh năm này đến độ tuổi 50 mà vẫn chưa tìm được chức vụ quan trọng thích hợp với mình.
Đặc trưng tính cách nổi bật của người tuổi Dần qua những người nổi tiếng có thể khái quát như sau:
Có tài thao lược
Tần Thủy Hoàng sinh năm 259 tr.CN, tức năm Chu Noãn Vương thứ 56, năm Nhâm Dần, cầm tinh con Hổ, thuộc mệnh Thủy. Tên húy là Doanh Chính, là con của Trang Tương Vương nước Tần, là người sáng lập nên vương triều nhà Tần. Tần Thủy Hoàng sinh vào cuối thời Chiến quốc, lúc này 7 nước Chiến quốc tranh nhau xưng bá, các cuộc trinh chiến diễn ra liên tục, việc thống nhất Trung Quốc trở thành sự phát triển tất yếu và nhu cầu bức thiết của quần chúng nhân dân cũng như sự phát triển của xã hội. Năm 246 tr.CN, Trang Tương Vương qua đời, Doanh Chính năm đó mới 13 tuổi đã lên nối ngôi vua, mọi quyền hành nằm trong tay Lã Bất Vi, Thái Hậu và hoạn quan, họ kết bè kéo cánh nắm giữ mọi quyền hành. Năm 238 tr.CN, tức năm 22 tuổi Doanh Chính vào triều đích thân cầm quyền, cũng chính trong năm này Lã Bất Vi bị cách chức tướng quốc, Uý Liêu và Lý Tư được trọng dụng. Tiếp đó ông áp dụng chính sách kết giao với nước xa để tấn công nước gần, thực hiện ý đồ thôn tính từng nước một. Cho người sang hối lộ đại thần của 6 nước, ly gián mối quan hệ giữa vua và quần thần, khiến sự liên kết trong các nước tan rã, đồng thời còn liên tục dấy binh tiến công. Năm 230 tr.CN ông bắt đầu tiến đánh Triều Tiên, sau 12 năm nam chinh bắc chiến, đến năm 221 tr.CN tiêu diệt được nước Tề mới thôi, cuối cùng hoàn thành sự nghiệp thống nhất 6 nước, lúc này ông đổi tên thành Tần Thủy Hoàng. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng cho rằng việc thống nhất Trung Quốc là sự nghiệp vĩ đại, từ thượng cổ đến nay chưa từng có, Ngũ Đế đều không bằng, thế là từ lúc này ông một mình nắm giữ mọi quyền hành về chính trị, kinh tế cũng như quân sự. Đồng thời ông cử Mông Điềm dẫn 30 vạn quân lên phía bắc đánh quân Hung Nô, thu lại phần lãnh thổ đã mất. Để phòng chống sự xâm phạm của quân Hung Nô, ông cho tu sửa Trường Thành - công trình kiến trúc của nhà Tần, Triệu, Yên, nối liền thành Vạn lý Trường Thành. Tần Thủy Hoàng còn mở rộng về phía nam bắc, cho đặt bốn quận, tăng cường sự hòa hợp giữa dân tộc Hán và dân tộc thiểu số. Như vậy, ông đã xây dựng một đế quốc phong kiến lấy tộc Hán làm chủ thể và gồm nhiều dân tộc khác nhau, Tần Thủy Hoàng cũng trở thành vị vua thống nhất cả nước đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi thống nhất Trung Quốc, ông áp dụng chế độ tập quyền trung ương, về chính trị trước tiên phế bỏ chế độ phong cấp đất đai, chia đất nước thành 36 quận huyện. Quan lại từ trung ương đến địa phương đều do đích thân nhà vua tuyển chọn và bổ nhiệm, không còn kiểu cha truyền con nối.
Để tăng cường sự thống trị của bộ máy tập quyền trung ương, ông còn thống nhất pháp luật, đơn vị đo lường, chữ viết và tiền tệ. Để đề phòng tầng lớp quý tộc của 6 nước gây cuộc phản loạn, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh tước đoạt binh khí trong thiên hạ, tập trung về Hàm Dương để tiêu hủy, đồng thời bắt vương tộc 6 nước mà ông đã chiếm, kể cả gia đình và các đại thần của họ phải dời đến Hàm Dương để ông dễ bề kiểm soát. Năm 220 tr.CN, ông còn cho xây dựng tuyến đường giao thông ở Hàm Dương, một đường từ phía đông thông ra biển, một đường từ phía nam thông đến nước Ngô, Việt; ông còn cho đào con kênh nối liền Tương Giang Và Châu Giang. Tần Thủy Hoàng còn nhiều lần đi tuần tra tới tất cả các nước để thị uy. Để tăng cường sự thống trị chuyên chế về tư tưởng, năm 213 tr.CN, ông đã cho đốt hết các bản Tứ thư, Ngũ kinh và Bách gia chư tử trong dân gian, chỉ giữ lại một bản cất trong thư viện của triều đình.
Các bộ sử của 6 nước cũng phải đốt hết, chỉ được giữ lại những sách về kỹ thuật, kẻ nào không tuân lệnh mà lén lút giữ thì bị kết tội là phản quốc. Tứ thư và Ngũ kinh của đạo Nho bị xem là phản động, vì nó luôn khiến người dân nhớ đến chế độ phong kiến cũ, chính vì vậy mà trong năm sau ông đã cho chôn sống 460 người ở Hàm Dương, đây chính là sự kiện lịch sử được các nhà Nho gọi là “đốt sách chôn Nho”. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông cho xây dựng cơ sở hạ tầng, ông đã huy động hơn 70 vạn dân và không tiếc sức người sức của xây dựng cung A Phòng và lăng mộ Ly Sơn, kết quả do việc phục dịch quá sức chịu đựng nên người dân bắt đầu nổi dậy phản kháng, sự thống trị của ông đã bị lung lay.
Năm 210 tr.CN, trên đường đi tuần đến Bình Nguyên thì lâm bệnh, tháng 7 ông qua đời tại Bình Đài thuộc đất Sa Khâu.
Kiến thức uyên thâm
Đỉnh cao nhân loại về Thiên văn học cổ đại là Trương Hoành (78-139), đồng thời ông cũng là nhà địa lý, nhà toán học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu thiên văn, ông đã tìm ra quỹ đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời, ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng mắt thường. Những nhận định chính xác của ông về Hệ mặt trời khiến người thời đó không thể hiểu được. Ông cho rằng trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt trăng đi vào phần bóng râm của trái đất, và hình dáng tròn khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác nhau từ mặt đất.
Trương Hoành viết hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú ông viết:
“Trời tròn giống như quả trứng, mà Đất giống như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa, bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh”.
Còn trong tác phẩm thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí các chòm sao và viết:
“Trong bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm 2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những người đi biển nhìn thấy. Kể cả những sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”.
Đặc biệt nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ quan sát thiên văn là Hỗn Thiên Nghi.
Theo Hán Sử, Hỗn thiên nghi là một Thiên cầu bằng đồng gồm những vòng đồng có chia khoảng. Đường Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo một góc 24 độ (chỉ sai 0,5 độ so với thực tế). Một chiếc ống thẳng để nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng. Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị trí chính xác, điều mà chưa ai làm được trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt trăng và nguyệt thực được giải thích chính xác.
Cũng xin được nói thêm về các phát minh của Trương Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên văn học phương Tây thông thường là nhà vật lý - toán học, Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực khác.
Một sáng chế đáng chú ý của ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm một bình đồng, có những cơ cấu nhạy với độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động, quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.
Hậu Hán thư viết rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yết kiến và trình với vua rằng có động đất ở phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.
Ông cũng là người đã nêu ra cách tính tỉ số pi (π) bằng căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại đến nay.
Tài giỏi khác người
Nguyễn Tịch (210 - 263), tên chữ là Tự Tông, người đất Trấn Lưu, con của Nguyễn Vũ, một trong Kiến An Thất tử.
Nguyễn Tịch có dung mạo khác thường, chí khí mở rộng, tự nhiên, một mình độc lập, phóng túng tự do, mà mừng giận không hiện ra nét mặt, thường đóng cửa ở trong nhà đọc sách, có khi hàng tháng không bước chân ra ngoài, có khi trèo lên núi ngao du sơn thủy hàng mấy ngày quên trở về.
Nguyễn Tịch đọc rất nhiều sách mà thích nhất là sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử.
Ông thích uống rượu, biết thổi sáo giỏi đàn cầm, đôi khi đắc ý chợt quên hình hài mà siêu thần nhập hóa. Người đời cho rằng ông có máu điên.
Vì có cái cuồng danh đó mà Tư Mã Chiêu (con của Tư Mã Ý) đem lòng ngưỡng mộ, muốn kết thân với Nguyễn Tịch, nhưng ông không chịu nên cố ý say sưa luôn 60 ngày đêm để khỏi gặp Tư Mã Chiêu.
Bề ngoài của Nguyễn Tịch trông rất phóng đãng, nhưng bên trong rất thuần chính. Hành động phóng đãng là giả vờ để tránh tai họa, bảo trọng lấy thân mà thôi.
Ông nhận thấy triều đình càng lúc càng suy yếu, quan lại chuyên quyền, a dua nịnh hót, ông rất đau lòng, nên đã kết tinh vào tác phẩm “Vịnh Hoài” của mình, đó là một tập thơ bất hủ gồm 82 bài thơ, một kiệt tác của thời bấy giờ. Tấm lòng của ông bao la, tầm mắt rộng lớn mà không gặp được người đồng khí tương cầu nên đã thể hiện nỗi bi thương trong thơ văn rất mãnh liệt.
Nguyễn Tịch có viết sách “Đạt Trang Luận”, trong đó, ông xác định Triết lý tự nhiên, cho rằng trời đất sinh ra trong tự nhiên, vạn vật sinh ra từ trời đất.
Nguyễn Tịch có cặp mắt rất đặc biệt, khi vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt xanh, còn không vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt trắng. Khi mẹ Nguyễn Tịch mất, ông Kê Hỷ mang đồ lễ đến viếng, Nguyễn Tịch tiếp nhìn với đôi mắt trắng dã. Hỷ ra về mà bụng không bằng lòng.
Em của Kê Hỷ là Kê Khang nghe biết chuyện đó, mới mang rượu và cắp đàn đến, thì Tịch rất vui, vừa ý lắm, tiếp Kê Khang với đôi mắt xanh.
Năm thứ tư đời Cảnh nguyên, tức là năm 263 Nguyễn Tịch mất, hưởng thọ 54 tuổi.
Kê Khang thường ca tụng Nguyễn Tịch rằng: Nguyễn Tự Tông, miệng không bàn lỗi của người. Ta mỗi khi bắt chước điều ấy mà không kịp được, cùng cực bẩm tính hơn người, với sự vật không thương tổn, chỉ có cái uống rượu quá mức thôi.
Tài năng vượt trội
Lý Thời Trân (1518 - 1593), tự Đông Bích, về già tự hiệu là Tần Hồ sơn nhân, người đời Minh; Kỳ Châu (nay là Hồ Bắc, Kỳ Xuân, Kỳ Châu). Ông là nhà y dược học vĩ đại của Trung Quốc thời xưa nói riêng và của cả thế giới nói chung, ông có viết quyển sách y dược học nổi tiếng “Bản Thảo Cương Mục”. Ông là con của một gia đình làm nghề truyền thống. Nguyện vọng của ông là trở thành một thầy thuốc cứu người đời như cha ông. Nhưng mà lúc bấy giờ địa vị người thầy thuốc rất thấp, nhà ông thường bị quan lại khinh ghét. Vì vậy, cha ông quyết định cho ông học thi làm quan cho có địa vị với người ta. Ông không dám cãi ý cha. Năm 14 tuổi, ông đỗ tú tài. Sau đó, ba lần thi cử nhân đều không đỗ. Ông bèn khẩn cầu cha xin cho ông được chuyển sang theo học ngành y. Cha ông không biết làm thế nào, chịu cho ông làm theo nguyện vọng. Sau mười mấy năm học tập khắc khổ, ngoài 30 tuổi, ông là thầy thuốc nổi tiếng trong vùng.
Năm 1551, ông trị lành bệnh đứa con của Phú Thuận vương Chu Hậu Khôn mà nổi tiếng từ đó, được Sở vương Cha Anh Kiểm ở Vũ Xuống mời làm Phụng từ chính ở vương phủ, Kiêm chức Lương y sở sự vụ. Năm 1556, ông lại được tiến cử đến công tác ở Thái y viện với chức vụ Thái y viện phán. Trong thời gian này, ông có cơ hội xem khắp các loại sách qúy của vương phủ và hoàng gia, đồng thời đã xem được rất nhiều mẫu dược liệu mà ngày thường khó thấy được, mở rộng tầm mắt, phong phú hóa lĩnh vực tri thức của mình. Nhưng vì ông vốn không thích công danh nên làm việc ở Thái y viện không đầy năm lại từ chức về nhà chuyên tâm viết sách. Trong quá trình mấy chục năm hành nghề và đọc sách y cổ điển, ông phát hiện rằng sách bản thảo xưa còn có nhiều sai lầm nên quyết tâm biên soạn lại bộ sách “Bản thảo”.
Năm 35 tuổi, ông sắp xếp chương trình công tác, sưu tầm rộng rãi, đọc một số lượng lớn sách tham khảo và bắt đầu biên soạn sách “Bản thảo cương mục”. Để biết rõ tính chất, mùi vị, công hiệu,... của một số dược liệu, ông đã mang giỏ thuốc, dắt con và đồ đệ Bàng Khoang “tìm hỏi bốn phương”, đi qua vô số thâm sơn cùng cốc, trải qua 27 năm nỗ lực lao động gian nan khó nhọc, trước sau sửa đổi bản thảo 3 lần, sau cùng mới hoàn thành bộ sách lớn về y học nổi tiếng trong và ngoài nước này vào năm 1578. Lúc này ông đã 61 tuổi. Năm 1596, cũng là năm thứ ba sau khi ông qua đời, bộ sách “Bản thảo cương mục” chính thức ra đời tại Kim Lăng (nay là Nam Kinh), lập tức cả nước được tin, giới y học xem là của báu, tranh nhau mua sách. Không lâu sau sách lưu truyền khắp thế giới. Bộ sách này chẳng những là một cống hiến to lớn cho sự phát triển ngành y học Trung Quốc, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển các ngành y dược học, thực vật học, động vật học, khoáng vật học, hóa học của thế giới.
Làm giàu từ bé
Ingvar Kamprad (người Thụy Điển) sinh năm 1926, là người sáng lập ra tập đoàn kinh doanh đồ gỗ IKEA. Khi mới 5 tuổi, ông đã có phi vụ kinh doanh đầu tiên: bán những que diêm cho hàng xóm. Sau đó, ông bán cá, rồi những đồ trang trí trong ngày lễ Giáng sinh, hạt giống và bút bi.
Ông thành lập IKEA vào năm 17 tuổi. Hiện tại cửa hàng của IKEA có tại 84 nước trên thế giới. Ingvar Kamprad thường xuyên nằm trong danh sách 5 người giàu nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Doanh thu của IKEA vào năm 2006 là 17,3 tỷ euro và có tới 90.000 nhân viên trên khắp thế giới.
Xem tuổi làm ăn tuổi Dần
Doanh nghiệp thành lập năm Dần
* Gottlieb Daimler sinh năm 1834 tại Schorndorf, là con trai của một người thợ nướng bánh bậc thầy. Ông từng học việc trong ngành đầu máy xe lửa trước khi theo học trường Bách Khoa Stuttgart. Sau đó, ông ra nước ngoài làm việc cho nhiều nhà máy cơ khí ở Pháp và Anh, rồi trở về Đức. Năm 1865, Daimler gặp một kỹ sư trẻ tài năng người Đức, Wilhelm Maybach.
Cuộc gặp định mệnh này đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của cả hai người. Năm 1882, Daimler thành lập phân xưởng thử nghiệm trong khu vườn nhà mình tại Cannsatt, gần Stuttgart. Bốn năm sau, với sự giúp đỡ của Wilhelm Maybach, ông chế tạo thành công chiếc xe bốn bánh gắn động cơ đầu tiên trên thế giới. Ngày 28 tháng 11 năm 1890, thành lập công ty “Daimler-Motoren-Gesellschaft”, và Maybach trở thành giám đốc kỹ thuật của công ty này. Năm 1900, Daimler-Motoren-Gesellschaft sản xuất loạt xe mạnh mẽ và được ưa chuộng hơn theo đơn đặt hàng của Emil Jellineck, một thương gia thành đạt người Áo rất đam mê và yêu thích xe hơi.
Năm 1926 (Bính Dần), Daimler-Motoren Gesellschaft hợp nhất với Benz & Cie thành công ty cổ phần Daimler-Benz AG. Kể từ đó, tất cả các sản phẩm đều mang cái tên ghép “Mercedes-Benz”. Biểu tượng của công ty được thiết kế lại để nhằm thể hiện được những giá trị chủ yếu của hai cái tên hiện có - và ngôi sao ba cánh với vòng nguyệt quế trong logo của Benz chính thức được sử dụng làm biểu tượng cho cái tên Mercedes-Benz.
* Năm 1950 (Canh Dần), Lý Gia Thành sáng lập xưởng sản xuất nhựa tổng hợp Trường Giang. Năm 1957, đổi tên thành công ty trách nhiệm hữu hạn công nghiệp Trường Giang, phát triển sản xuất các loại đồ chơi, hoa... từ nhựa tổng hợp. Năm 1958 đến năm 1960 ông lần lượt cho xây dựng hai tòa nhà công nghiệp đồ sộ. Năm 1972, Lý Gia Thành đổi tên công ty thành Công ty trách nhiệm hữu hạn Công thương nghiệp Trường Giang, ngày 1- 11 cổ phiếu của công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Kim Ngân, sàn giao dịch Viễn Đông, sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông. Tiếp đó cổ phiếu của công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn (1973), sàn giao dịch chứng khoán Vancouver (Canada) (6-1974).
Năm 1986, tập đoàn Trường Giang được xếp vào danh sách 10 tập đoàn giàu có nhất Hồng Kông và trở thành một trong bốn công ty đứng đầu trên sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông chiếm 13,57% tổng giá trị thị - trường chứng khoán Hồng Kông.
Đến năm 1991 hệ thống tập đoàn công thương nghiệp Trường Giang đã phát triển trở thành tập đoàn doanh nghiệp xuyên quốc gia có ảnh hưởng lớn và chiếm vị trí quan trọng trên trường thế giới với số vốn lên tới 120 tỷ đô la Hồng Kông tăng gấp 3,5 lần so với năm 1986.
Năm 1996, công ty xây dựng cơ bản Trường Giang lên sàn chứng khoán Hồng Kông.
Trước mắt tập đoàn đã đầu tư kinh doanh trên 41 quốc gia trên thế giới với hơn 160000công
nhân.
Người sinh năm Dần chọn lựa đối tác làm ăn buôn bán.
Theo quan niệm của người Trung Quốc cổ xưa, người tuổi Dần muốn làm ăn phát đạt khi hợp tác với những người có tuổi như sau:
Giáp Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Quý Hợi; nữ giới hợp với các tuổi Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Nhâm Tuất, Quý Hợi.
Bính Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu, Giáp Tý; nữ giới hợp với các tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu.
Mậu Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất; nữ giới hợp với các tuổi Kỷ Mão, Quý Mùi, Ất Dậu.
Canh Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu; nữ giới hợp với các tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất.
Nhâm Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Giáp Thìn, Mậu Thân, Canh Tuất; nữ giới hợp với các tuổi Mậu Thân, Giáp Thìn, Canh Tuất.
Vận khí cuộc đời tuổi Dần
Vận khí của tuổi dần theo ngũ hành
1. Người tuổi Dần thuộc mệnh gì?
2. Mệnh lý của người tuổi Dần
Địa chi: sinh năm Dần.
Ngũ hành: Dần thuộc Mộc.
Ngũ thường: Mộc thuộc nhân.
Hướng may mắn: hướng nam, hướng đông và đông nam.
Mầu may mắn: xanh lam, màu xám, màu trắng, màu cam; kỵ màu vàng kim, màu bạc, màu nâu, màu đen.
Số may mắn: 1, 3, 4; số hung: 6, 7, 8.
Hoa may mắn: cúc phú quý.
3. Ưu khuyết điểm của người tuổi Dần
Ưu điểm: Tính cách khá cố chấp, chuyên quyền độc đoán, thích mạo hiểm, càng thất bại càng cố gắng vươn lên, có hoài bão lớn, luôn tràn ngập niềm tin. Tính cách rất đàn ông, nhiệt tình, dũng cảm, tinh thần mạo hiểm hơn người. Làm việc tích cực, mạnh dạn thể hiện mình, làm việc quyết đoán, đã nói là làm, không bao giờ nuốt lời hứa. Ưa hoạt động, thích chơi trội, có tấm lòng nghĩa hiệp, tính tình thẳng thắn, luôn được tín nhiệm. Người cầm tinh con Hổ trông bề ngoài không dữ dằn nhưng rất có uy, tự tin, thuộc kiểu người lãnh đạo, tính cách cương trực, không dễ khuất phục, làm việc gì cũng phải hoàn thành mới thôi, rất thích hợp với các chức vụ lãnh đạo. Làm bất cứ việc gì cũng không chuẩn bị trước, họ không thể tích góp mọi thứ lại để phòng khi bất chợt cần đến. Người cầm tinh con Hổ vốn rất thích đón nhận thách thức, không thích phục tùng người khác, nhưng lại muốn người khác phục tùng mình.
Khuyết điểm: Có tính phản bội, quá tự tin nên không thể hợp tác được với người khác, thích sống một mình, thường tỏ thái độ rất cực đoan. Thiếu tính lãng mạn, đối với vợ cũng dùng chính sách độc tài, thiếu bầu không khí vui vẻ trong gia đình. Tuy quen biết nhiều nhưng không thể có những mối quan hệ sâu đậm, cố chấp, để đạt mục đích thì không từ bất cứ thủ đoạn nào, ngang ngược, thích được tác động, ý thức cái tôi rất cao. Về việc đầu tư thì thích chỉ đầu tư trong thời gian ngắn là thu được lợi, không thích để quá lâu. Nếu ở quê thì chớ để họ cai quản việc chăn nuôi gia súc, vì từ trường của họ sẽ khiến cho những con gia súc cái thấy bất an, vì sợ có thể sẽ cướp mất con của chúng nên sẽ chống cự lại. (Các khuyết điểm trên nếu sửa chữa thì có thể khắc phục được.)
4. Ngũ hành của người tuổi Dần
Kim: Thích cuộc sống gia đình ổn định, ấm êm, là người rất chăm lo cho gia đình. Là nữ rất nhiệt tình, là nam thì tính tình và sự thể hiện bên ngoài khác hoan toàn, nội tâm khá mềm yếu, hay do dự, sống buông thả, nhút nhát, là nữ thì khó mà khống chế được họ. Người mệnh Kim luôn hiểu rõ đạo lý “làm ra làm, chơi ra chơi”, họ không để công việc ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, với bạn đời cũng biết quan tâm chăm sóc, nhưng thực tế họ lại là người rất cần lời khuyên của người khác. Người mệnh Kim thích nắm quyền, đa số những người sinh năm Dần đều mong mình có quyền thế, nếu chăm chỉ làm việc, không ngừng nâng cao tố chất của mình thì nhất định sẽ thành công. Người mệnh Kim có mối quan hệ xã giao rất tốt, họ luôn nhận được sự ủng hộ của đồng nghiệp, hợp tác vui vẻ với mọi người, công việc rất thuận lợi. Song tuyệt đối không được vì có số may mắn mà sinh ra lười nhác. Khi làm việc phải chuyên tâm, không được để những ý nghĩ không đâu ảnh hưởng đến công việc. Tham gia tất cả các cuộc thi đấu, cơ hội giành chiến thắng cũng rất lớn. Nguyên nhân đau khổ buồn phiền của người mệnh Kim thường chính là những vấn đề về tình cảm. Là nam thường vì vợ mà khiến tâm trạng bất ổn, buồn phiền. Chỉ cần ráng sức chịu đựng và luôn thể hiện lòng nhân ái thì chuyện hôn nhân không thể đi đến kết cục không mấy tốt đẹp. Là nữ thì nguyên nhân khiến tâm trạng phiền muộn hầu hết là do những hành vi của người thân và con cái khiến họ hay cáu gắt, rất dễ xảy ra mâu thuẫn, còn chồng thì hay đi vắng, khiến họ cảm thấy bất an. Không nên nghi ngờ, hãy tỏ ra quan tâm và thể hiện sự dịu dàng với họ, cơ thể sẽ giữ cho cuộc hôn nhân được bảo toàn. Chuyện vay mượn phải rõ ràng, tránh để sau này xảy ra cãi cọ mà mất đi người bạn thân thiết của mình, nên để ý đến lời nói của người khác, qua đó để đúc rút kinh nghiệm từ họ, đồng thời khi trao đổi bàn bạc công việc với ai cũng phải thận trọng, không nên bạ đâu nói đấy và có những cử chỉ tùy tiện. Người mệnh Kim gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như tài sản, nhưng suốt ngày phải bận rộn và vất vả là điều không thể tránh khỏi, không nên làm việc mà thiếu suy nghĩ, để tránh những tổn thất đáng tiếc.
Mộc: Bản tính vốn ghét sự chỉ huy của người khác, cho nên không thích hợp với công việc của viên chức, tương đối thích hợp trong sự nghiệp của mình. Với kẻ mạnh hơn mình thì dũng cảm đứng lên đấu tranh, nhưng lại rất thông cảm với kẻ yếu thế, biết người khác gặp khó khăn là tới giúp liền, người khác có nhờ việc gì là không bao giờ từ chối, đó chính là người thuộc mệnh Mộc. Người này tuy có đức tính tốt là thích quan tâm tới người khác, nhưng dễ bị người khác lừa gạt, cho nên phải hết sức cẩn thận, tốt nhất đừng có đứng ra làm người bảo đảm cho người khác, để tránh tự chuốc họa vào thân. Ý thức cái tôi rất cao, lại có khuynh hướng tự cho mình là đúng. Đối với người mệnh Mộc, điều quan trọng nhất là phải khiêm tốn hơn nữa. Người mệnh Mộc là người có lối sống hiện thực, hay phân biệt đối xử và tự tư, lòng dạ lại hẹp hòi, có tính chủ quan, không dễ khuất phục người khác, làm việc hơi lỗ mãng. Người mệnh Mộc rất có nghĩa khí, giữ chữ tín, đã đồng ý làm việc gì thì nhất định phải làm được mới thôi, còn việc mình quyết tâm làm thì không dễ chịu tác động của người khác. Là nam thì có khả năng ứng phó tốt, học hỏi nhanh, là nữ thì khá giàu lòng nhân ái. Người mệnh này khi còn đi học phải nỗ lực học tập, chọn lấy một môn học mà mình yêu thích, chăm chỉ và chuyên tâm học hành, ngoài ra không được từ bỏ cơ hội đi du học nước ngoài để có được địa vị cao hơn.
Người mệnh Mộc đã có công việc ổn định, ngoài thời gian làm việc vất vả cũng nên nghiên cứu sâu hơn về ngành nghề của mình, để chứng minh mình hoàn toàn có đủ khả năng đảm đương công việc, nên cố gắng để đạt được mục tiêu cao hơn nữa. Những gì bạn thể hiện luôn được cấp trên định giá cao, hãy tận dụng tất cả những cơ hội đến với mình, điều này sẽ mang lại cho bạn những kết quả thật bất ngờ. Khi còn đi học tốt nhất không nên đề cập dễ dàng đến chuyện tình cảm, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc học của bạn. Về gia đình, sức khỏe của cha mẹ hơi yếu, còn sự nghiệp của cha thì gặp một số khó khăn, tâm trạng của mẹ thì không tốt lắm.
Nên dành nhiều thời gian ở nhà vui cùng cha mẹ, hãy thấu hiểu tâm trạng của cha mẹ và quan tâm nhiều hơn tới người thân trong nhà. Tài vận của người mệnh Mộc nói chung là tốt, khi gặp khó khăn thường được người phu nữ lớn tuổi giúp đỡ vượt qua khó khăn. Không nên chơi trò đỏ đen, tốt nhất nên đem tiền mua những thứ luôn bảo toàn giá trị.
Thủy: Năng lực học tập tốt, thích những thứ mới lạ, đặc biệt có thể đạt đến trình độ uyên thâm trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật. Người mệnh Thuỷ có lòng tự tôn rất cao, luôn làm theo cách của mình, tự coi mình là thanh cao, cậy tài khinh người, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác, đó là nguyên nhân chính khiến họ thất bại nhưng vì cơ hội thất bại của họ quá ít nên đó cũng là điều khiến người khác phải đố kỵ.
Sự nghiệp của người mệnh Thuỷ có thể đánh giá là 50% tốt và 50% xấu. Nếu được bạn bè hoặc bạn đời giúp đỡ thì nhất định tiền đồ của họ có nhiều khởi sắc. Người mệnh Thuỷ nên lưu ý đừng quá dễ dãi mà tin theo người khác, làm việc gì cũng phải thận trọng, phải suy nghĩ thấu đáo, để kế hoạch của mình có thể thực hiện thuận lợi. Chỉ cần bạn luôn dốc hết sức mình thì nhất định sẽ được đền bù xứng đáng. Hãy coi trọng tình yêu của mình, nếu không bạn sẽ đánh mất người quan trọng nhất của bạn. Khi hẹn hò với người yêu, nên nói những chuyện mà cả hai đều có hứng. Là người đã có gia đình cần chú ý đến những cuộc cãi cọ thường xuyên xảy ra giữa hai vợ chồng, phải cố gắng giải quyết cho ổn thoả, để gia đình được êm ấm, vui vẻ. Việc vay vốn ngân hàng của người này có thể được xét duyệt, khiến vấn đề tài chính của họ được giải quyết thuận lợi. Cũng có thể có những khoản tiền bất ngờ đến với mình, và cơ hội kiêm chức cũng có thể xuất hiện. Cũng nên thử tham gia một số cuộc đầu tư nhỏ, vì có thể bạn sẽ thành công.
Hoả: Có tính cách đã nói là làm, làm việc nghiêm túc, ý chí kiên cường, có tấm lòng bao dung độ lượng, tài hoa, thông minh lanh lợi, khi thảo luận với người khác luôn thích phát biểu ý kiến của mình một cách thao thao bất tuyệt. Người mệnh hoả vốn thông minh, phản ứng nhanh, thành tích học tập tốt, thích các hoạt động ngoại khoá, nên ngay từ nhỏ đã được thầy cô yêu mến. Chẳng qua là ham muốn của người này quá nhiều, lại hay kiêu ngạo, thích nghe những lời nói hay, dễ bị cám dỗ, cho nên luôn bị người ta lừa gạt. Luôn luôn phải cảnh tỉnh mình, chú ý giữ gìn sức khoẻ, nếu ốm phải điều trị ngay, không được chậm chễ khiến bệnh tình nặng thêm. Người sinh năm Dần luôn phải chú ý đến sự hoà thuận trong gia đình, tăng cường sự đoàn kết giữa những người thân trong gia đình. Tài vận của người này rất tốt, dù gặp khó khăn hay bệnh tật đều ứng phó dễ dàng.
Thổ: Tính tình kiêu ngạo, rất tự tin, có hoài bao lớn cho tương lai, có tinh thần sáng nghiệp. Chẳng qua ham muốn của người này quá nhiều nên thường cho rằng họ hơi tham lam.
Người mệnh Thổ có tấm lòng lương thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác, là người bạn đáng tin cậy. Họ thông minh lanh lợi, rất thích nghiên cứu về lĩnh vực siêu hình và triết học, nếu có thể có nhiều thời gian nghiên cứu thì sau này chắc chắn sẽ đạt được những thành quả nhất định.
Người mệnh Thổ có thể được cấp trên đánh giá cao nhưng phải nắm bắt cơ hội thì mới có thể phát huy hết được khả năng và tạo ra hiệu quả kinh tế. Nên tận dụng thời gian rỗi đi học thêm, nhằm củng cố kiến thức và làm cơ sở vững chắc để thăng tiến. Người mệnh Thổ là người khảng khái, cho nên sẽ nhận được sự đền đáp của người mình đã từng giúp đỡ nên cũng giải quyết được rất nhiều vấn đề trước đây chưa thực hiện được. Người mệnh Thổ thích sáng nghiệp thường có tư duy mới lạ, có thể lập kế hoạch và cùng nghiên cứu với những người thân yêu, điều này sẽ mang lại hiệu quả rất tốt. Nên suy xét đến sự đe doạ của người thứ ba đối với bạn, hãy quan tâm nhiều hơn tới bạn đời của mình, đừng có xem thường sự tồn tại của họ, khiến họ cảm thấy cô đơn mà dẫn đến các cuộc ngoại tình, thậm chí ảnh hưởng đến sự
nghiệp và tâm trí của cả hai người. Người mệnh Thổ rất dễ gặp được quý nhân, việc gì cuối cùng cũng nhận được kết quả tốt đẹp, làm việc có tính sáng tạo, ngoài ra thường có người mời đi ăn.
Nhiệt tình, hăng hái. Có đặc trưng tính cách là nhiệt tình chân thành, dũng cảm.
Với sự lựa chọn của mình, không được hời hợt, phiến diện trước khi đưa ra quyết định, một khi đã quyết định rồi thì không nên tùy tiện thay đổi, có gian khổ và mạo hiểm, nhưng do có niềm tin vững bền và lòng yêu nghề, khiến bản thân luôn “nói là làm, làm ắt có kết quả” và với ý chí kiên cường biến nó thành thực tiễn.
May mắn. Vận may không ít, rất thích dẫn dắt cuộc sống của mình bằng thái độ nhân sinh tích cực và lòng tiến thủ. Có thể nắm bắt thời cơ để quan sát thấu hiểu tình thế đang diễn ra, biết tránh nguy hiểm, một khi gặp cảnh dày vò hoặc khó khăn, có thể coi đó lại là một kinh nghiệm của cuộc sống, để tiếp tục tiến lên trên con đường dài vạn dặm. Tại thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời, biết thể xoay chuyển thời cơ, biến hung thành cát.
Đặc trưng tính cách của người thuộc tuổi Dần (Hổ) có thể được hiểu và diễn giải như sau:
Hổ thuộc ngôi thứ ba trong số 12 con giáp, tính độc lập và lòng tự tôn của người tuổi Dần đều rất cao, thích hành động một mình, không hoà đồng với quần chúng, thích người khác nể phục mình, thường làm anh cả là người che chở bảo vệ cho người bình thường. Nhưng làm việc lại nóng vội, lỗ mãng, cho nên hay làm lỡ việc, đó là một trong những nguyên nhân họ thường xuyên bị thất bại. Nhưng người tuổi Dần không thể thất bại mãi được, khi gặp khó khăn, cản trở hoặc thất bại, họ quyết đoán kịp thời, quyết tâm làm lại từ đầu, và đến khi nào thành công mới thôi.
Người tuổi Dần nhìn bên ngoài có vẻ sống rất độ lượng, nhưng ý chí rất kiên cường, có lòng nhân từ, có đức tính quên mình vì người, thích chơi trội, có tấm lòng nghĩa hiệp, thường để lại danh tiếng không tốt trong dân gian, nên hết sức lưu ý. Người sinh năm này luôn được mọi người kính trọng, là nữ thường thông minh, hiền lành. Người tuổi Dần thời trẻ vận đến, thời trung niên vận chìm nổi bất định, thay đổi khôn lường, sau thời trung niên gặp cơ hội tốt, cuối đời cũng có thể trở thành người đức cao vọng trọng.
Ngoài ra họ rất thích tranh luận với mọi người; không bao giờ chịu thua. Nếu muốn người tuổi Dần tin phục thì đó là chuyện rất khó thực hiện, là nam thì tính cách tương đối ngoan cố, hiếu thắng. Hay tranh chấp với người khác. Là nữ khá cẩn thận, trước khi làm việc gì cũng suy nghĩ thấu đáo, dù trong sự nghiệp hay trong cuộc sống, họ đều là người vợ hiền, người nội trợ đảm đang.
Người tuổi Dần là người nóng tính, dễ bị kích động, phán đoán của họ đôi khi không chính xác. Họ không ưa làm theo quy tắc, trừ khi quy tắc là do họ đặt ra. Đặc biệt họ là người rất hay thay đổi công việc, vì họ không thích đứng ỳ một chỗ hoặc phải chịu sự ràng buộc bên ngoài.
Họ rất có tinh thần chính nghĩa, rất ghét vòng vo, nhưng để cuộc sống được bình an và trôi qua một cách suôn sẻ, có khi phải kết hợp với một số đạo lý đối nhân xử thế trong xã hội.
Nhưng với cá tính của họ thì không thể làm được điều này, dù đối phương là cấp trên của họ, chỉ cần họ cho rằng đối phương có sai sót là thẳng thừng phê bình luôn.
Theo cách nhìn nhận của người tuổi Dần tất cả những trào lưu mới đều là sự tác quái của thế và lợi. Nhưng người này luôn cho rằng mình là người sáng tạo, người đặt ra chuẩn mực, họ luôn thích chạy trước thời đại, không thích theo sát trào lưu hiện thời.
Người tuổi Dần là người luôn cứng rắn trong công việc, dù trong hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm đến mấy họ cũng quyết không rút lui. Người này rất dễ bị ảnh hưởng bởi tính cách của bạn bè, cho nên thường khiến mình sa vào lối sống cuồng vọng tự đại mà không thể thoát ra được.
Người tuổi Dẩn không mấy hứng thú với tiền bạc, nói thế không có nghĩa là họ không có tiền, mà là họ không quá bận tâm đến chuyện tiền bạc họ thích có đủ tiền, thậm chí là rất nhiều, nhưng không thể hoàn toàn bị lu mờ bởi đồng tiền. Họ luôn nghĩ rằng, dù làm bất cứ việc gì cũng cần có đủ tiền, cho đến khi dùng hết tiền mới thôi.
Người tuổi Dần muốn gìn giữ sự chân thành, nhưng đôi khi môi trường xung quanh buộc họ phải phạm một số lỗi nhỏ. Họ không chịu nổi sự quyền uy hoặc sự bất công nào. Họ ghét sự bất công, họ có thể bất chấp mọi thứ để biện minh cho cách nghĩ của mình. Người này sinh ra luôn đề cao sự quyền uy, luôn muốn mình có địa vị cao trong xã hội và được nắm giữ quyền hành. Nhưng do bản tính hiếu động và thích thay đổi nên rất nhiều người sinh năm này đến độ tuổi 50 mà vẫn chưa tìm được chức vụ quan trọng thích hợp với mình.
Đặc trưng tính cách nổi bật của người tuổi Dần qua những người nổi tiếng có thể khái quát như sau:
Có tài thao lược
Tần Thủy Hoàng sinh năm 259 tr.CN, tức năm Chu Noãn Vương thứ 56, năm Nhâm Dần, cầm tinh con Hổ, thuộc mệnh Thủy. Tên húy là Doanh Chính, là con của Trang Tương Vương nước Tần, là người sáng lập nên vương triều nhà Tần. Tần Thủy Hoàng sinh vào cuối thời Chiến quốc, lúc này 7 nước Chiến quốc tranh nhau xưng bá, các cuộc trinh chiến diễn ra liên tục, việc thống nhất Trung Quốc trở thành sự phát triển tất yếu và nhu cầu bức thiết của quần chúng nhân dân cũng như sự phát triển của xã hội. Năm 246 tr.CN, Trang Tương Vương qua đời, Doanh Chính năm đó mới 13 tuổi đã lên nối ngôi vua, mọi quyền hành nằm trong tay Lã Bất Vi, Thái Hậu và hoạn quan, họ kết bè kéo cánh nắm giữ mọi quyền hành. Năm 238 tr.CN, tức năm 22 tuổi Doanh Chính vào triều đích thân cầm quyền, cũng chính trong năm này Lã Bất Vi bị cách chức tướng quốc, Uý Liêu và Lý Tư được trọng dụng. Tiếp đó ông áp dụng chính sách kết giao với nước xa để tấn công nước gần, thực hiện ý đồ thôn tính từng nước một. Cho người sang hối lộ đại thần của 6 nước, ly gián mối quan hệ giữa vua và quần thần, khiến sự liên kết trong các nước tan rã, đồng thời còn liên tục dấy binh tiến công. Năm 230 tr.CN ông bắt đầu tiến đánh Triều Tiên, sau 12 năm nam chinh bắc chiến, đến năm 221 tr.CN tiêu diệt được nước Tề mới thôi, cuối cùng hoàn thành sự nghiệp thống nhất 6 nước, lúc này ông đổi tên thành Tần Thủy Hoàng. Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng cho rằng việc thống nhất Trung Quốc là sự nghiệp vĩ đại, từ thượng cổ đến nay chưa từng có, Ngũ Đế đều không bằng, thế là từ lúc này ông một mình nắm giữ mọi quyền hành về chính trị, kinh tế cũng như quân sự. Đồng thời ông cử Mông Điềm dẫn 30 vạn quân lên phía bắc đánh quân Hung Nô, thu lại phần lãnh thổ đã mất. Để phòng chống sự xâm phạm của quân Hung Nô, ông cho tu sửa Trường Thành - công trình kiến trúc của nhà Tần, Triệu, Yên, nối liền thành Vạn lý Trường Thành. Tần Thủy Hoàng còn mở rộng về phía nam bắc, cho đặt bốn quận, tăng cường sự hòa hợp giữa dân tộc Hán và dân tộc thiểu số. Như vậy, ông đã xây dựng một đế quốc phong kiến lấy tộc Hán làm chủ thể và gồm nhiều dân tộc khác nhau, Tần Thủy Hoàng cũng trở thành vị vua thống nhất cả nước đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Sau khi thống nhất Trung Quốc, ông áp dụng chế độ tập quyền trung ương, về chính trị trước tiên phế bỏ chế độ phong cấp đất đai, chia đất nước thành 36 quận huyện. Quan lại từ trung ương đến địa phương đều do đích thân nhà vua tuyển chọn và bổ nhiệm, không còn kiểu cha truyền con nối.
Để tăng cường sự thống trị của bộ máy tập quyền trung ương, ông còn thống nhất pháp luật, đơn vị đo lường, chữ viết và tiền tệ. Để đề phòng tầng lớp quý tộc của 6 nước gây cuộc phản loạn, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh tước đoạt binh khí trong thiên hạ, tập trung về Hàm Dương để tiêu hủy, đồng thời bắt vương tộc 6 nước mà ông đã chiếm, kể cả gia đình và các đại thần của họ phải dời đến Hàm Dương để ông dễ bề kiểm soát. Năm 220 tr.CN, ông còn cho xây dựng tuyến đường giao thông ở Hàm Dương, một đường từ phía đông thông ra biển, một đường từ phía nam thông đến nước Ngô, Việt; ông còn cho đào con kênh nối liền Tương Giang Và Châu Giang. Tần Thủy Hoàng còn nhiều lần đi tuần tra tới tất cả các nước để thị uy. Để tăng cường sự thống trị chuyên chế về tư tưởng, năm 213 tr.CN, ông đã cho đốt hết các bản Tứ thư, Ngũ kinh và Bách gia chư tử trong dân gian, chỉ giữ lại một bản cất trong thư viện của triều đình.
Các bộ sử của 6 nước cũng phải đốt hết, chỉ được giữ lại những sách về kỹ thuật, kẻ nào không tuân lệnh mà lén lút giữ thì bị kết tội là phản quốc. Tứ thư và Ngũ kinh của đạo Nho bị xem là phản động, vì nó luôn khiến người dân nhớ đến chế độ phong kiến cũ, chính vì vậy mà trong năm sau ông đã cho chôn sống 460 người ở Hàm Dương, đây chính là sự kiện lịch sử được các nhà Nho gọi là “đốt sách chôn Nho”. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, ông cho xây dựng cơ sở hạ tầng, ông đã huy động hơn 70 vạn dân và không tiếc sức người sức của xây dựng cung A Phòng và lăng mộ Ly Sơn, kết quả do việc phục dịch quá sức chịu đựng nên người dân bắt đầu nổi dậy phản kháng, sự thống trị của ông đã bị lung lay.
Năm 210 tr.CN, trên đường đi tuần đến Bình Nguyên thì lâm bệnh, tháng 7 ông qua đời tại Bình Đài thuộc đất Sa Khâu.
Kiến thức uyên thâm
Đỉnh cao nhân loại về Thiên văn học cổ đại là Trương Hoành (78-139), đồng thời ông cũng là nhà địa lý, nhà toán học, làm việc tại kinh đô Lạc Dương của nhà Hán. Sau nhiều năm dành cho nghiên cứu thiên văn, ông đã tìm ra quỹ đạo chính xác của 5 hành tinh trong Hệ mặt trời, ghi lại vị trí các sao được nhìn thấy bằng mắt thường. Những nhận định chính xác của ông về Hệ mặt trời khiến người thời đó không thể hiểu được. Ông cho rằng trái đất phải có hình tròn chứ không phải phẳng dẹt, bầu trời bao bọc bên ngoài, ánh trăng là phản chiếu của mặt trời, Nguyệt thực là do mặt trăng đi vào phần bóng râm của trái đất, và hình dáng tròn khuyết của mặt trăng là do góc độ nhìn khác nhau từ mặt đất.
Trương Hoành viết hơn 20 tác phẩm, trong quyển Hỗn Thiên chú ông viết:
“Trời tròn giống như quả trứng, mà Đất giống như lòng đỏ, nằm lơ lửng ở chính giữa, bầu trời lớn hơn bao bọc xung quanh”.
Còn trong tác phẩm thiên văn Linh Hiến, ông đã vẽ vị trí các chòm sao và viết:
“Trong bầu trời từ Bắc đến Nam có 124 chòm sao, gồm 2500 ngôi sao tỏa sáng, trong đó 320 ngôi đã được đặt tên; đó là chưa kể những sao mà những người đi biển nhìn thấy. Kể cả những sao rất bé thì tổng số là 11.520 ngôi”.
Đặc biệt nhất là ông đã chế tạo một dụng cụ quan sát thiên văn là Hỗn Thiên Nghi.
Theo Hán Sử, Hỗn thiên nghi là một Thiên cầu bằng đồng gồm những vòng đồng có chia khoảng. Đường Hoàng đạo của Thiên cầu lệch với xích đạo một góc 24 độ (chỉ sai 0,5 độ so với thực tế). Một chiếc ống thẳng để nhìn giúp ông xác định vị trí các sao theo hướng không sai lệch và không bị ánh sáng khác ảnh hưởng. Nhờ đó, các ngôi sao được đo đạc vị trí chính xác, điều mà chưa ai làm được trước đó. Sau đó, ông còn dùng sức nước đẩy quả cầu quay, mô tả chuyển động các sao, hiện tượng tròn khuyết của mặt trăng và nguyệt thực được giải thích chính xác.
Cũng xin được nói thêm về các phát minh của Trương Hoành. Cũng giống như các nhà Thiên văn học phương Tây thông thường là nhà vật lý - toán học, Trương Hoành còn có các phát minh trong nhiều lĩnh vực khác.
Một sáng chế đáng chú ý của ông là thiết bị đo động đất. Nó gồm một bình đồng, có những cơ cấu nhạy với độ rung ở trong, bên ngoài là 8 con rồng ngậm hờ một quả cầu ở miệng, bên dưới là 8 con cóc quay về 8 hướng. Nếu có chấn động, quả cầu sẽ rơi xuống, và tùy tiếng động to hay nhỏ mà đoán động đất mạnh hay yếu.
Hậu Hán thư viết rằng: năm 138, khi thấy quả cầu ở phía tây rơi xuống, Trương Hoành đã vội yết kiến và trình với vua rằng có động đất ở phía tây Lạc Dương. Vào ngày hôm đó không có gì xảy ra ở kinh đô, khiến ông bị những quan lại khác chỉ trích. Nhưng 2 ngày sau thì có tin báo là có động đất mạnh ở 1000 dặm phía tây Lạc Dương. Sự kiện này gây xôn xao triều đình.
Ông cũng là người đã nêu ra cách tính tỉ số pi (π) bằng căn bậc 2 của 10, sai số với thực tế là khoảng 0.02. Đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, chỉ còn rất ít trong số các công trình của ông còn lại đến nay.
Tài giỏi khác người
Nguyễn Tịch (210 - 263), tên chữ là Tự Tông, người đất Trấn Lưu, con của Nguyễn Vũ, một trong Kiến An Thất tử.
Nguyễn Tịch có dung mạo khác thường, chí khí mở rộng, tự nhiên, một mình độc lập, phóng túng tự do, mà mừng giận không hiện ra nét mặt, thường đóng cửa ở trong nhà đọc sách, có khi hàng tháng không bước chân ra ngoài, có khi trèo lên núi ngao du sơn thủy hàng mấy ngày quên trở về.
Nguyễn Tịch đọc rất nhiều sách mà thích nhất là sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử và Nam Hoa Kinh của Trang Tử.
Ông thích uống rượu, biết thổi sáo giỏi đàn cầm, đôi khi đắc ý chợt quên hình hài mà siêu thần nhập hóa. Người đời cho rằng ông có máu điên.
Vì có cái cuồng danh đó mà Tư Mã Chiêu (con của Tư Mã Ý) đem lòng ngưỡng mộ, muốn kết thân với Nguyễn Tịch, nhưng ông không chịu nên cố ý say sưa luôn 60 ngày đêm để khỏi gặp Tư Mã Chiêu.
Bề ngoài của Nguyễn Tịch trông rất phóng đãng, nhưng bên trong rất thuần chính. Hành động phóng đãng là giả vờ để tránh tai họa, bảo trọng lấy thân mà thôi.
Ông nhận thấy triều đình càng lúc càng suy yếu, quan lại chuyên quyền, a dua nịnh hót, ông rất đau lòng, nên đã kết tinh vào tác phẩm “Vịnh Hoài” của mình, đó là một tập thơ bất hủ gồm 82 bài thơ, một kiệt tác của thời bấy giờ. Tấm lòng của ông bao la, tầm mắt rộng lớn mà không gặp được người đồng khí tương cầu nên đã thể hiện nỗi bi thương trong thơ văn rất mãnh liệt.
Nguyễn Tịch có viết sách “Đạt Trang Luận”, trong đó, ông xác định Triết lý tự nhiên, cho rằng trời đất sinh ra trong tự nhiên, vạn vật sinh ra từ trời đất.
Nguyễn Tịch có cặp mắt rất đặc biệt, khi vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt xanh, còn không vừa lòng ai thì nhìn với đôi mắt trắng. Khi mẹ Nguyễn Tịch mất, ông Kê Hỷ mang đồ lễ đến viếng, Nguyễn Tịch tiếp nhìn với đôi mắt trắng dã. Hỷ ra về mà bụng không bằng lòng.
Em của Kê Hỷ là Kê Khang nghe biết chuyện đó, mới mang rượu và cắp đàn đến, thì Tịch rất vui, vừa ý lắm, tiếp Kê Khang với đôi mắt xanh.
Năm thứ tư đời Cảnh nguyên, tức là năm 263 Nguyễn Tịch mất, hưởng thọ 54 tuổi.
Kê Khang thường ca tụng Nguyễn Tịch rằng: Nguyễn Tự Tông, miệng không bàn lỗi của người. Ta mỗi khi bắt chước điều ấy mà không kịp được, cùng cực bẩm tính hơn người, với sự vật không thương tổn, chỉ có cái uống rượu quá mức thôi.
Tài năng vượt trội
Lý Thời Trân (1518 - 1593), tự Đông Bích, về già tự hiệu là Tần Hồ sơn nhân, người đời Minh; Kỳ Châu (nay là Hồ Bắc, Kỳ Xuân, Kỳ Châu). Ông là nhà y dược học vĩ đại của Trung Quốc thời xưa nói riêng và của cả thế giới nói chung, ông có viết quyển sách y dược học nổi tiếng “Bản Thảo Cương Mục”. Ông là con của một gia đình làm nghề truyền thống. Nguyện vọng của ông là trở thành một thầy thuốc cứu người đời như cha ông. Nhưng mà lúc bấy giờ địa vị người thầy thuốc rất thấp, nhà ông thường bị quan lại khinh ghét. Vì vậy, cha ông quyết định cho ông học thi làm quan cho có địa vị với người ta. Ông không dám cãi ý cha. Năm 14 tuổi, ông đỗ tú tài. Sau đó, ba lần thi cử nhân đều không đỗ. Ông bèn khẩn cầu cha xin cho ông được chuyển sang theo học ngành y. Cha ông không biết làm thế nào, chịu cho ông làm theo nguyện vọng. Sau mười mấy năm học tập khắc khổ, ngoài 30 tuổi, ông là thầy thuốc nổi tiếng trong vùng.
Năm 1551, ông trị lành bệnh đứa con của Phú Thuận vương Chu Hậu Khôn mà nổi tiếng từ đó, được Sở vương Cha Anh Kiểm ở Vũ Xuống mời làm Phụng từ chính ở vương phủ, Kiêm chức Lương y sở sự vụ. Năm 1556, ông lại được tiến cử đến công tác ở Thái y viện với chức vụ Thái y viện phán. Trong thời gian này, ông có cơ hội xem khắp các loại sách qúy của vương phủ và hoàng gia, đồng thời đã xem được rất nhiều mẫu dược liệu mà ngày thường khó thấy được, mở rộng tầm mắt, phong phú hóa lĩnh vực tri thức của mình. Nhưng vì ông vốn không thích công danh nên làm việc ở Thái y viện không đầy năm lại từ chức về nhà chuyên tâm viết sách. Trong quá trình mấy chục năm hành nghề và đọc sách y cổ điển, ông phát hiện rằng sách bản thảo xưa còn có nhiều sai lầm nên quyết tâm biên soạn lại bộ sách “Bản thảo”.
Năm 35 tuổi, ông sắp xếp chương trình công tác, sưu tầm rộng rãi, đọc một số lượng lớn sách tham khảo và bắt đầu biên soạn sách “Bản thảo cương mục”. Để biết rõ tính chất, mùi vị, công hiệu,... của một số dược liệu, ông đã mang giỏ thuốc, dắt con và đồ đệ Bàng Khoang “tìm hỏi bốn phương”, đi qua vô số thâm sơn cùng cốc, trải qua 27 năm nỗ lực lao động gian nan khó nhọc, trước sau sửa đổi bản thảo 3 lần, sau cùng mới hoàn thành bộ sách lớn về y học nổi tiếng trong và ngoài nước này vào năm 1578. Lúc này ông đã 61 tuổi. Năm 1596, cũng là năm thứ ba sau khi ông qua đời, bộ sách “Bản thảo cương mục” chính thức ra đời tại Kim Lăng (nay là Nam Kinh), lập tức cả nước được tin, giới y học xem là của báu, tranh nhau mua sách. Không lâu sau sách lưu truyền khắp thế giới. Bộ sách này chẳng những là một cống hiến to lớn cho sự phát triển ngành y học Trung Quốc, mà còn có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển các ngành y dược học, thực vật học, động vật học, khoáng vật học, hóa học của thế giới.
Làm giàu từ bé
Ingvar Kamprad (người Thụy Điển) sinh năm 1926, là người sáng lập ra tập đoàn kinh doanh đồ gỗ IKEA. Khi mới 5 tuổi, ông đã có phi vụ kinh doanh đầu tiên: bán những que diêm cho hàng xóm. Sau đó, ông bán cá, rồi những đồ trang trí trong ngày lễ Giáng sinh, hạt giống và bút bi.
Ông thành lập IKEA vào năm 17 tuổi. Hiện tại cửa hàng của IKEA có tại 84 nước trên thế giới. Ingvar Kamprad thường xuyên nằm trong danh sách 5 người giàu nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn. Doanh thu của IKEA vào năm 2006 là 17,3 tỷ euro và có tới 90.000 nhân viên trên khắp thế giới.
Xem tuổi làm ăn tuổi Dần
Doanh nghiệp thành lập năm Dần
* Gottlieb Daimler sinh năm 1834 tại Schorndorf, là con trai của một người thợ nướng bánh bậc thầy. Ông từng học việc trong ngành đầu máy xe lửa trước khi theo học trường Bách Khoa Stuttgart. Sau đó, ông ra nước ngoài làm việc cho nhiều nhà máy cơ khí ở Pháp và Anh, rồi trở về Đức. Năm 1865, Daimler gặp một kỹ sư trẻ tài năng người Đức, Wilhelm Maybach.
Cuộc gặp định mệnh này đã đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đời của cả hai người. Năm 1882, Daimler thành lập phân xưởng thử nghiệm trong khu vườn nhà mình tại Cannsatt, gần Stuttgart. Bốn năm sau, với sự giúp đỡ của Wilhelm Maybach, ông chế tạo thành công chiếc xe bốn bánh gắn động cơ đầu tiên trên thế giới. Ngày 28 tháng 11 năm 1890, thành lập công ty “Daimler-Motoren-Gesellschaft”, và Maybach trở thành giám đốc kỹ thuật của công ty này. Năm 1900, Daimler-Motoren-Gesellschaft sản xuất loạt xe mạnh mẽ và được ưa chuộng hơn theo đơn đặt hàng của Emil Jellineck, một thương gia thành đạt người Áo rất đam mê và yêu thích xe hơi.
Năm 1926 (Bính Dần), Daimler-Motoren Gesellschaft hợp nhất với Benz & Cie thành công ty cổ phần Daimler-Benz AG. Kể từ đó, tất cả các sản phẩm đều mang cái tên ghép “Mercedes-Benz”. Biểu tượng của công ty được thiết kế lại để nhằm thể hiện được những giá trị chủ yếu của hai cái tên hiện có - và ngôi sao ba cánh với vòng nguyệt quế trong logo của Benz chính thức được sử dụng làm biểu tượng cho cái tên Mercedes-Benz.
* Năm 1950 (Canh Dần), Lý Gia Thành sáng lập xưởng sản xuất nhựa tổng hợp Trường Giang. Năm 1957, đổi tên thành công ty trách nhiệm hữu hạn công nghiệp Trường Giang, phát triển sản xuất các loại đồ chơi, hoa... từ nhựa tổng hợp. Năm 1958 đến năm 1960 ông lần lượt cho xây dựng hai tòa nhà công nghiệp đồ sộ. Năm 1972, Lý Gia Thành đổi tên công ty thành Công ty trách nhiệm hữu hạn Công thương nghiệp Trường Giang, ngày 1- 11 cổ phiếu của công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Kim Ngân, sàn giao dịch Viễn Đông, sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông. Tiếp đó cổ phiếu của công ty được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn (1973), sàn giao dịch chứng khoán Vancouver (Canada) (6-1974).
Năm 1986, tập đoàn Trường Giang được xếp vào danh sách 10 tập đoàn giàu có nhất Hồng Kông và trở thành một trong bốn công ty đứng đầu trên sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông chiếm 13,57% tổng giá trị thị - trường chứng khoán Hồng Kông.
Đến năm 1991 hệ thống tập đoàn công thương nghiệp Trường Giang đã phát triển trở thành tập đoàn doanh nghiệp xuyên quốc gia có ảnh hưởng lớn và chiếm vị trí quan trọng trên trường thế giới với số vốn lên tới 120 tỷ đô la Hồng Kông tăng gấp 3,5 lần so với năm 1986.
Năm 1996, công ty xây dựng cơ bản Trường Giang lên sàn chứng khoán Hồng Kông.
Trước mắt tập đoàn đã đầu tư kinh doanh trên 41 quốc gia trên thế giới với hơn 160000công
nhân.
Người sinh năm Dần chọn lựa đối tác làm ăn buôn bán.
Theo quan niệm của người Trung Quốc cổ xưa, người tuổi Dần muốn làm ăn phát đạt khi hợp tác với những người có tuổi như sau:
Giáp Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Quý Hợi; nữ giới hợp với các tuổi Giáp Dần, Mậu Ngọ, Canh Thân, Nhâm Tuất, Quý Hợi.
Bính Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu, Giáp Tý; nữ giới hợp với các tuổi Đinh Mão, Canh Ngọ, Quý Dậu.
Mậu Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất; nữ giới hợp với các tuổi Kỷ Mão, Quý Mùi, Ất Dậu.
Canh Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất, Kỷ Sửu; nữ giới hợp với các tuổi Nhâm Thìn, Ất Mùi, Mậu Tuất.
Nhâm Dần:
Nam giới hợp với các tuổi Giáp Thìn, Mậu Thân, Canh Tuất; nữ giới hợp với các tuổi Mậu Thân, Giáp Thìn, Canh Tuất.
Vận khí cuộc đời tuổi Dần
Vận khí của tuổi dần theo ngũ hành
1. Người tuổi Dần thuộc mệnh gì?
Năm sinh | Can chi | Nạp âm |
1902 1962 2022 | Nhâm Dần | Kim Bạch Kim (Vàng dát mỏng) |
1914 1974 2034 | Giáp Dần | Đại Khê Thuỷ (Nước khe lớn) |
1926 1986 2046 | Bính Dần | Lô Trung Hoả (Lửa trong lò) |
1938 1998 2058 | Mậu Dần | Thành đầu Thổ (Đất tường thành) |
1950 2010 2070 | Canh Dần | Tùng bách Mộc (Gỗ tùng bách) |
2. Mệnh lý của người tuổi Dần
Địa chi: sinh năm Dần.
Ngũ hành: Dần thuộc Mộc.
Ngũ thường: Mộc thuộc nhân.
Hướng may mắn: hướng nam, hướng đông và đông nam.
Mầu may mắn: xanh lam, màu xám, màu trắng, màu cam; kỵ màu vàng kim, màu bạc, màu nâu, màu đen.
Số may mắn: 1, 3, 4; số hung: 6, 7, 8.
Hoa may mắn: cúc phú quý.
3. Ưu khuyết điểm của người tuổi Dần
Ưu điểm: Tính cách khá cố chấp, chuyên quyền độc đoán, thích mạo hiểm, càng thất bại càng cố gắng vươn lên, có hoài bão lớn, luôn tràn ngập niềm tin. Tính cách rất đàn ông, nhiệt tình, dũng cảm, tinh thần mạo hiểm hơn người. Làm việc tích cực, mạnh dạn thể hiện mình, làm việc quyết đoán, đã nói là làm, không bao giờ nuốt lời hứa. Ưa hoạt động, thích chơi trội, có tấm lòng nghĩa hiệp, tính tình thẳng thắn, luôn được tín nhiệm. Người cầm tinh con Hổ trông bề ngoài không dữ dằn nhưng rất có uy, tự tin, thuộc kiểu người lãnh đạo, tính cách cương trực, không dễ khuất phục, làm việc gì cũng phải hoàn thành mới thôi, rất thích hợp với các chức vụ lãnh đạo. Làm bất cứ việc gì cũng không chuẩn bị trước, họ không thể tích góp mọi thứ lại để phòng khi bất chợt cần đến. Người cầm tinh con Hổ vốn rất thích đón nhận thách thức, không thích phục tùng người khác, nhưng lại muốn người khác phục tùng mình.
Khuyết điểm: Có tính phản bội, quá tự tin nên không thể hợp tác được với người khác, thích sống một mình, thường tỏ thái độ rất cực đoan. Thiếu tính lãng mạn, đối với vợ cũng dùng chính sách độc tài, thiếu bầu không khí vui vẻ trong gia đình. Tuy quen biết nhiều nhưng không thể có những mối quan hệ sâu đậm, cố chấp, để đạt mục đích thì không từ bất cứ thủ đoạn nào, ngang ngược, thích được tác động, ý thức cái tôi rất cao. Về việc đầu tư thì thích chỉ đầu tư trong thời gian ngắn là thu được lợi, không thích để quá lâu. Nếu ở quê thì chớ để họ cai quản việc chăn nuôi gia súc, vì từ trường của họ sẽ khiến cho những con gia súc cái thấy bất an, vì sợ có thể sẽ cướp mất con của chúng nên sẽ chống cự lại. (Các khuyết điểm trên nếu sửa chữa thì có thể khắc phục được.)
4. Ngũ hành của người tuổi Dần
Kim: Thích cuộc sống gia đình ổn định, ấm êm, là người rất chăm lo cho gia đình. Là nữ rất nhiệt tình, là nam thì tính tình và sự thể hiện bên ngoài khác hoan toàn, nội tâm khá mềm yếu, hay do dự, sống buông thả, nhút nhát, là nữ thì khó mà khống chế được họ. Người mệnh Kim luôn hiểu rõ đạo lý “làm ra làm, chơi ra chơi”, họ không để công việc ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình, với bạn đời cũng biết quan tâm chăm sóc, nhưng thực tế họ lại là người rất cần lời khuyên của người khác. Người mệnh Kim thích nắm quyền, đa số những người sinh năm Dần đều mong mình có quyền thế, nếu chăm chỉ làm việc, không ngừng nâng cao tố chất của mình thì nhất định sẽ thành công. Người mệnh Kim có mối quan hệ xã giao rất tốt, họ luôn nhận được sự ủng hộ của đồng nghiệp, hợp tác vui vẻ với mọi người, công việc rất thuận lợi. Song tuyệt đối không được vì có số may mắn mà sinh ra lười nhác. Khi làm việc phải chuyên tâm, không được để những ý nghĩ không đâu ảnh hưởng đến công việc. Tham gia tất cả các cuộc thi đấu, cơ hội giành chiến thắng cũng rất lớn. Nguyên nhân đau khổ buồn phiền của người mệnh Kim thường chính là những vấn đề về tình cảm. Là nam thường vì vợ mà khiến tâm trạng bất ổn, buồn phiền. Chỉ cần ráng sức chịu đựng và luôn thể hiện lòng nhân ái thì chuyện hôn nhân không thể đi đến kết cục không mấy tốt đẹp. Là nữ thì nguyên nhân khiến tâm trạng phiền muộn hầu hết là do những hành vi của người thân và con cái khiến họ hay cáu gắt, rất dễ xảy ra mâu thuẫn, còn chồng thì hay đi vắng, khiến họ cảm thấy bất an. Không nên nghi ngờ, hãy tỏ ra quan tâm và thể hiện sự dịu dàng với họ, cơ thể sẽ giữ cho cuộc hôn nhân được bảo toàn. Chuyện vay mượn phải rõ ràng, tránh để sau này xảy ra cãi cọ mà mất đi người bạn thân thiết của mình, nên để ý đến lời nói của người khác, qua đó để đúc rút kinh nghiệm từ họ, đồng thời khi trao đổi bàn bạc công việc với ai cũng phải thận trọng, không nên bạ đâu nói đấy và có những cử chỉ tùy tiện. Người mệnh Kim gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp cũng như tài sản, nhưng suốt ngày phải bận rộn và vất vả là điều không thể tránh khỏi, không nên làm việc mà thiếu suy nghĩ, để tránh những tổn thất đáng tiếc.
Mộc: Bản tính vốn ghét sự chỉ huy của người khác, cho nên không thích hợp với công việc của viên chức, tương đối thích hợp trong sự nghiệp của mình. Với kẻ mạnh hơn mình thì dũng cảm đứng lên đấu tranh, nhưng lại rất thông cảm với kẻ yếu thế, biết người khác gặp khó khăn là tới giúp liền, người khác có nhờ việc gì là không bao giờ từ chối, đó chính là người thuộc mệnh Mộc. Người này tuy có đức tính tốt là thích quan tâm tới người khác, nhưng dễ bị người khác lừa gạt, cho nên phải hết sức cẩn thận, tốt nhất đừng có đứng ra làm người bảo đảm cho người khác, để tránh tự chuốc họa vào thân. Ý thức cái tôi rất cao, lại có khuynh hướng tự cho mình là đúng. Đối với người mệnh Mộc, điều quan trọng nhất là phải khiêm tốn hơn nữa. Người mệnh Mộc là người có lối sống hiện thực, hay phân biệt đối xử và tự tư, lòng dạ lại hẹp hòi, có tính chủ quan, không dễ khuất phục người khác, làm việc hơi lỗ mãng. Người mệnh Mộc rất có nghĩa khí, giữ chữ tín, đã đồng ý làm việc gì thì nhất định phải làm được mới thôi, còn việc mình quyết tâm làm thì không dễ chịu tác động của người khác. Là nam thì có khả năng ứng phó tốt, học hỏi nhanh, là nữ thì khá giàu lòng nhân ái. Người mệnh này khi còn đi học phải nỗ lực học tập, chọn lấy một môn học mà mình yêu thích, chăm chỉ và chuyên tâm học hành, ngoài ra không được từ bỏ cơ hội đi du học nước ngoài để có được địa vị cao hơn.
Người mệnh Mộc đã có công việc ổn định, ngoài thời gian làm việc vất vả cũng nên nghiên cứu sâu hơn về ngành nghề của mình, để chứng minh mình hoàn toàn có đủ khả năng đảm đương công việc, nên cố gắng để đạt được mục tiêu cao hơn nữa. Những gì bạn thể hiện luôn được cấp trên định giá cao, hãy tận dụng tất cả những cơ hội đến với mình, điều này sẽ mang lại cho bạn những kết quả thật bất ngờ. Khi còn đi học tốt nhất không nên đề cập dễ dàng đến chuyện tình cảm, vì điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc học của bạn. Về gia đình, sức khỏe của cha mẹ hơi yếu, còn sự nghiệp của cha thì gặp một số khó khăn, tâm trạng của mẹ thì không tốt lắm.
Nên dành nhiều thời gian ở nhà vui cùng cha mẹ, hãy thấu hiểu tâm trạng của cha mẹ và quan tâm nhiều hơn tới người thân trong nhà. Tài vận của người mệnh Mộc nói chung là tốt, khi gặp khó khăn thường được người phu nữ lớn tuổi giúp đỡ vượt qua khó khăn. Không nên chơi trò đỏ đen, tốt nhất nên đem tiền mua những thứ luôn bảo toàn giá trị.
Thủy: Năng lực học tập tốt, thích những thứ mới lạ, đặc biệt có thể đạt đến trình độ uyên thâm trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ và nghệ thuật. Người mệnh Thuỷ có lòng tự tôn rất cao, luôn làm theo cách của mình, tự coi mình là thanh cao, cậy tài khinh người, không dễ tiếp thu ý kiến của người khác, đó là nguyên nhân chính khiến họ thất bại nhưng vì cơ hội thất bại của họ quá ít nên đó cũng là điều khiến người khác phải đố kỵ.
Sự nghiệp của người mệnh Thuỷ có thể đánh giá là 50% tốt và 50% xấu. Nếu được bạn bè hoặc bạn đời giúp đỡ thì nhất định tiền đồ của họ có nhiều khởi sắc. Người mệnh Thuỷ nên lưu ý đừng quá dễ dãi mà tin theo người khác, làm việc gì cũng phải thận trọng, phải suy nghĩ thấu đáo, để kế hoạch của mình có thể thực hiện thuận lợi. Chỉ cần bạn luôn dốc hết sức mình thì nhất định sẽ được đền bù xứng đáng. Hãy coi trọng tình yêu của mình, nếu không bạn sẽ đánh mất người quan trọng nhất của bạn. Khi hẹn hò với người yêu, nên nói những chuyện mà cả hai đều có hứng. Là người đã có gia đình cần chú ý đến những cuộc cãi cọ thường xuyên xảy ra giữa hai vợ chồng, phải cố gắng giải quyết cho ổn thoả, để gia đình được êm ấm, vui vẻ. Việc vay vốn ngân hàng của người này có thể được xét duyệt, khiến vấn đề tài chính của họ được giải quyết thuận lợi. Cũng có thể có những khoản tiền bất ngờ đến với mình, và cơ hội kiêm chức cũng có thể xuất hiện. Cũng nên thử tham gia một số cuộc đầu tư nhỏ, vì có thể bạn sẽ thành công.
Hoả: Có tính cách đã nói là làm, làm việc nghiêm túc, ý chí kiên cường, có tấm lòng bao dung độ lượng, tài hoa, thông minh lanh lợi, khi thảo luận với người khác luôn thích phát biểu ý kiến của mình một cách thao thao bất tuyệt. Người mệnh hoả vốn thông minh, phản ứng nhanh, thành tích học tập tốt, thích các hoạt động ngoại khoá, nên ngay từ nhỏ đã được thầy cô yêu mến. Chẳng qua là ham muốn của người này quá nhiều, lại hay kiêu ngạo, thích nghe những lời nói hay, dễ bị cám dỗ, cho nên luôn bị người ta lừa gạt. Luôn luôn phải cảnh tỉnh mình, chú ý giữ gìn sức khoẻ, nếu ốm phải điều trị ngay, không được chậm chễ khiến bệnh tình nặng thêm. Người sinh năm Dần luôn phải chú ý đến sự hoà thuận trong gia đình, tăng cường sự đoàn kết giữa những người thân trong gia đình. Tài vận của người này rất tốt, dù gặp khó khăn hay bệnh tật đều ứng phó dễ dàng.
Thổ: Tính tình kiêu ngạo, rất tự tin, có hoài bao lớn cho tương lai, có tinh thần sáng nghiệp. Chẳng qua ham muốn của người này quá nhiều nên thường cho rằng họ hơi tham lam.
Người mệnh Thổ có tấm lòng lương thiện, sẵn sàng giúp đỡ người khác, là người bạn đáng tin cậy. Họ thông minh lanh lợi, rất thích nghiên cứu về lĩnh vực siêu hình và triết học, nếu có thể có nhiều thời gian nghiên cứu thì sau này chắc chắn sẽ đạt được những thành quả nhất định.
Người mệnh Thổ có thể được cấp trên đánh giá cao nhưng phải nắm bắt cơ hội thì mới có thể phát huy hết được khả năng và tạo ra hiệu quả kinh tế. Nên tận dụng thời gian rỗi đi học thêm, nhằm củng cố kiến thức và làm cơ sở vững chắc để thăng tiến. Người mệnh Thổ là người khảng khái, cho nên sẽ nhận được sự đền đáp của người mình đã từng giúp đỡ nên cũng giải quyết được rất nhiều vấn đề trước đây chưa thực hiện được. Người mệnh Thổ thích sáng nghiệp thường có tư duy mới lạ, có thể lập kế hoạch và cùng nghiên cứu với những người thân yêu, điều này sẽ mang lại hiệu quả rất tốt. Nên suy xét đến sự đe doạ của người thứ ba đối với bạn, hãy quan tâm nhiều hơn tới bạn đời của mình, đừng có xem thường sự tồn tại của họ, khiến họ cảm thấy cô đơn mà dẫn đến các cuộc ngoại tình, thậm chí ảnh hưởng đến sự
nghiệp và tâm trí của cả hai người. Người mệnh Thổ rất dễ gặp được quý nhân, việc gì cuối cùng cũng nhận được kết quả tốt đẹp, làm việc có tính sáng tạo, ngoài ra thường có người mời đi ăn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét