- Đã đến lúc chấm dứt sự lừa dối đại cuồng!

Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ ngày nay, tính ngụy khoa học và phản tự nhiên của thuyết tiến hóa đã lộ ra rõ ràng đến nỗi những người không chuyên ngành về sinh học cũng có thể nhận thấy.


 Điển hình là trường hợp của Phillip Johnson, một giáo sư luật tại Đại học California ở Berkeley, trở thành một trong những nhà tiên phong trong sự nghiệp giành lại sự thật cho sinh học – tố cáo sự vi phạm luật tự nhiên của học thuyết Darwin. 

Trong hơn 20 năm qua Johnson liên tiếp cho ra mắt một loạt tác phẩm phê phán thuyết tiến hóa, thậm chí với tư cách một học giả về luật pháp, ông nêu câu hỏi thách thức:
Thuyết tiến hóa có thể chứng minh được tại một phòng xử án hay không?” (Can Evolution be proved in a courtroom?).
Câu hỏi ấy là lời giới thiệu cuốn “Darwin on Trial” (Darwin được đem ra xét xử) xuất bản năm 1991. Năm 1997, ra mắt cuốn “Defeating Darwinism by Open Minds” (Đánh bại học thuyết Darwin bằng tư duy mở). Năm 2006, ra mắt cuốn “Darwinism’s Nemesis” (Sự báo ứng đối với Darwin),….
Richard Dawkins là một nhà tiến hóa học nổi tiếng. Khi được hỏi “liệu ông có bằng chứng nào để chứng minh cho sự tiến hóa hay không?”, Dawkins đã ngớ người ra, im lặng suy nghĩ một lúc rất lâu không trả lời được, đơn giản vì làm gì có bằng chứng (tìm xem video “Richard Dawkins stumped by creationists’ question” (Richard Dawkins bị bí bởi câu hỏi của những người theo thuyết sáng tạo). Còn đây là thêm 2 videos bác bỏ Darwin:

The Great Evolution Hoax (Trò đánh lùa vĩ đại về tiến hóa)
DNA is the Greatest Enemy of Evolution Theory (DNA là kẻ thù lớn nhất của Thuyết Tiến hóa)
Toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. Vâng, chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Có nghĩa là ngay trong thời của Darwin, người ta đã ra công đào xới, tìm kiếm hóa thạch của các thế hệ chuyển tiếp quá độ, và không tìm thấy gì cả. Từ đó đến nay, 156 năm đã trôi qua, kể từ ngày cuốn “Về nguồn gốc các loài” ra đời, vẫn chẳng hề tìm thấy gì cả. Thời gian đã quá đủ để thấy sự thật, rằng KHÔNG TỒN TẠI những thế hệ chuyển tiếp, đơn giản vì KHÔNG CÓ SỰ TIẾN HÓA. Nói cách khác, phỏng đoán “vĩ đại” của Darwin là SAI – sai vì tin rằng có tiến hóa.
Một lần nữa xin nhấn mạnh rằng Darwin ý thức rất rõ rằng vấn đề hóa thạch sẽ quyết định “sinh mạng lý thuyết” của ông. Bằng chứng là ông dành hẳn một chương trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” để bàn về vấn đề này. Đó là Chương 9, nhan đề “On the Imperfection of the Geological Record” (Về thiếu sót trong hồ sơ địa chất), trong đó ông viết:
Sự giải thích, như tôi tin, nằm trong sự cực kỳ thiếu sót của hồ sơ địa chất”.
Thế đấy, Darwin đã cảnh báo rằng hồ sơ địa chất (tìm hóa thạch) là cực kỳ thiếu sót.
Đó là lý do để các đệ tử của Darwin phải tìm mọi cách lấp đầy khoảng trống tiến hóa từ vượn lên người. Họ dựng lên bức tranh tiến hóa “rất đẹp” từ vượn lên người, rồi cho phổ biến rộng rãi, nhằm tiêm nhiễm vào đầu óc mọi người, đặc biệt là trẻ em, rằng thuyết tiến hóa là một sự thật. Với công nghệ 3D hiện đại, nhiều bức tranh tiến hóa được bịa ra bằng những xảo thuật đánh lừa bậc thầy. Hình dưới đây là một ví dụ.
Nhưng những hóa thạch mà họ lấp đầy khoảng trống từ vượn lên người thực ra đều là những là những loài khỉ hoặc vượn 100% đã tuyệt chủng, hoặc đôi khi là hóa thạch người 100% thời tiền cổ đại. Họ lừa được đa số mọi người, vì đa số là những người không chuyên. Nhưng họ không lừa nổi các chuyên gia sinh học trung thực. Chẳng hạn như Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn “Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
Hoảng sợ trước việc không tìm thấy hóa thạch dưới lòng đất, các nhà tiến hóa nghĩ ra cách tìm “hóa thạch sống”. Đó là trường hợp đầu thế kỷ 20, họ đổ vấy cho người Aborigines (thổ dân) ở Australia chính là một loại “người-khỉ/khỉ-người” – một trong những cái được gọi là “missing links” (mắt xích chuyển tiếp bị mất tích) mà họ cần tìm kiếm để cứu vãn thuyết tiến hóa. Những cuộc truy lùng, săn bắt, thảm sát thổ dân đã diễn ra nhằm lấy hộp sọ nghiên cứu. Đó là một trang lịch sử đen tối của Úc, một vết thương âm ỉ trong lòng xã hội Úc đến nay vẫn chưa lành. Ngày nay ai cũng biết rõ đó là một tội ác của những kẻ nhân danh thuyết tiến hóa, vậy mà thuyết tiến hóa vẫn được tung hô, bằng cách bịt mắt lại để không nhìn thấy những hậu quả phi nhân mà nó đã gây ra trên thế giới, đỉnh cao là chủ nghĩa quốc xã Đức đầu thế kỷ 20. Phải mất nhân tính đến mức độ nào nữa thì người ta mới đủ dũng cảm để nhìn thẳng vào sự thật để kết tội thuyết tiến hóa? Câu hỏi của Grenville Kent trên tạp chí SIGNS of the Times của Australia: “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler điều gì?) vẫn không có nhà tiến hóa nào dám lên tiếng trả lời. Họ biết trả lời sao đây? Bởi chính ông thầy của họ, Charles Darwin đã dạy họ rằng:
Trong một thời gian không xa lắm, có thể tính bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh hầu như sẽ tiêu diệt các chủng tộc man rợ trên khắp thế giới”.
Richard Weikart, nhà lịch sử tại Đại học Tiểu bang California, nói:
Không có Học thuyết Darwin, đặc biệt các lý thuyết con của nó như thuyết ưu sinh và Darwin xã hội, cả Hiler lẫn những phần từ quốc xã đi theo hắn đều sẽ không có một chỗ dựa khoa học cần thiết để tự thuyết phục mình và thuyết phục những kẻ hợp tác với chúng rằng một trong những sự độc ác kinh khủng nhất lại thực sự đáng được ca ngợi về mặt đạo đức”.
Đó là hệ quả tất yếu của lý thuyết đấu tranh sinh tồn mạnh được yếu thua, cái được coi là động lực của tiến hóa. Hitler chỉ đơn giản là áp dụng lý thuyết đó vào xã hội loài người mà thôi. Chính Darwin đã lát đường cho Hitler! Chính Darwin đã cung cấp cho chủ nghĩa phân biệt chủng tộc một cơ sở ngụy khoa học để nó tiến hành những hành vi phản nhân loại nhân danh tiến hóa. Lý Tôn Ngô ở Trung Hoa đầu thế kỷ 20 đã vạch trần bản chất phi nhân này trong học thuyết Darwin.
Nhưng học thuyết Darwin mất uy tín không chỉ vì chủ nghĩa quốc xã. Lý do chủ yếu để nó mất uy tín là ở bản chất phi khoa học, hay chính xác hơn, bản chất phản khoa học của nó.
Nó phi khoa học vì vô bằng chứng:
Lý thuyết của Darwin về nguồn gốc các loài không có lấy một sự kiện thực tế nào để xác nhận nó trong thế giới tự nhiên. Nó không phải là kết quả của nghiên cứu khoa học, mà thuần túy chỉ là sản phẩm của tưởng tượng” (trích đoạn trang 13, cuốn Witnesses Against Evolution (Những bằng chứng chống lại thuyết tiến hóa) của John Meldau, do Christian Victory Publishing xuất bản năm 1968 tại Denver, Mỹ).
Nó phản khoa học vì toàn bộ lý thuyết của nó dựa trên một cơ chế phi hiện thực – sự chọn lọc tự nhiên dẫn tới những biến dị có lợi qua hàng triệu, hàng tỷ năm biến loài này thành loài khác. Michael Denton gần như giận dữ bác bỏ cơ chế này:
Không ở đâu Darwin có thể chỉ ra một trường hợp đích thực của chọn lọc tự nhiên đã thực sự gây ra biến đổi tiến hóa trong tự nhiên… Rốt cuộc, lý thuyết tiến hóa của Darwin không hơn không kém một câu chuyện hoang đường về nguồn gốc vũ trụ trong thế kỷ 20” (trích trang 62, 358, “Evolution, A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết trong khủng hoảng) của Michael Denton, NXB Adler & Adler, Maryland, Mỹ, 1986).
Khoa học chưa từng chứng kiến một biến dị có lợi nào. Ngược lại, hầu hết biến dị đều dẫn tới bệnh tật, hủy hoại sinh vật. Chọn lọc tự nhiên, một cơ chế tưởng tượng, không “dại gì” mà lựa chọn những biến dị có hại. Nói cách khác, chọn lọc tự nhiên không hoạt động, hay chính xác hơn, không có chọn lọc tự nhiên.
Toán học chứng minh rằng xác suất để xẩy ra liên tiếp hàng triệu, hàng tỷ những biến dị “có lợi” trong quá trình “tiến hóa” hàng triệu, hàng tỷ năm là một đại lượng coi như bằng 0, cơ may để biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn KHÔNG CÓ. Chọn lọc tự nhiên là một khái niệm tưởng tượng. Chọn lọc tự nhiên dẫn tới tiến hóa là chuyện hoàn toàn hoang đường!
Các nhà tiến hóa đã tiến hành những thí nghiệm hòng tạo ra những biến dị làm thay đổi loài. Nhưng họ thất bại thảm hại. Chẳng hạn, họ đã thực hiện những thí nghiệm chiếu xạ hoặc tác động hóa học đối với ruồi giấm trong hơn 1500 thế hệ. Kết quả, ruồi vẫn là ruồi, ruồi chẳng hề biến thành bất cứ con vật nào khác. Hơn nữa, trong những thế hệ tiếp nối, rất nhiều con bị chết, nhiều con bị xoăn cánh hoặc cánh cụt ngủn.
Dưới con mắt vật lý, biến dị chính là một biểu hiện của Định luật Entropy (Định luật thứ hai của nhiệt động học) – định luật nói rằng vật chất biến đổi theo chiều hướng càng ngày càng xấu đi, hỗn loạn hơn. Entropy là đại lượng đo mức độ vô trật tự của một hệ thống. Định luật entropy khẳng định entropy chỉ tăng, không giảm (có thể không tăng trong giai đoạn ngắn). Biến dị là một biểu hiện của sự tăng entropy. Vậy biến dị là một biến đổi ngược chiều với tiến hóa, vì tiến hóa là khái niệm cho rằng sự vật ngày càng có tổ chức cao hơn, trật tự hơn. Vậy lý thuyết nói rằng biến dị dẫn tới tiến hóa là hoàn toàn sai lầm, phản tự nhiên.
Tính chất tưởng tượng bịa đặt đó bị tố cáo mạnh mẽ trong cuốn “Evolution and the Emperor’s New Clothes” (Thuyết tiến hóa và bộ quần áo mới của hoàng đế) của N.J.Mitchell, do Roydon Publications xuất bản tại Anh năm 1983. Xin trích đoạn:
Các nhà khoa học, những người đang truyền bá rằng tiến hóa là một sự thật của cuộc sống, là những kẻ đánh lừa người khác bằng sự cả tin, và câu chuyện họ đang kể là trò lừa bịp hơn bao giờ hết. Trong khi giải thích sự tiến hóa, chúng ta mảy may không có một chút sự thật nào cả”.
Trước trào lưu chống thuyết tiến hóa ngày càng mạnh, thái độ của các nhà tiến hóa ra sao? Hoặc là im lặng, bởi “im lặng là vàng”. Càng làm to chuyện, chân tướng thuyết tiến hóa càng lộ rõ. Đúng ra, những người chống thuyết tiến hóa mới đang là những người muốn làm to chuyện, muốn đưa thuyết tiến hóa ra tòa, như Phillip Johnson chẳng hạn. Thực sự các nhà tiến hóa đã và đang rơi vào tình thế rất lúng túng, như Richard Dawkins đã lúng túng trong cuốn video ở trên. Tuy nhiên, bản chất ngoan cố của con người là điều không làm ai ngạc nhiên. Các nhà tiến hóa vẫn loanh quanh chống chế. Họ kém trung thực so với ông thầy của họ, Charles Darwin.
Thật vậy, dù sao thì Darwin vẫn hơn hẳn các đệ tử của ông vì thái độ trung thực. Nỗi lo lắng của ông về sự thiếu vắng bằng chứng hóa thạch là một ví dụ điển hình. Theo Adrian Desmond và James Moore kể lại trong cuốn “Darwin” (do W.W.Norton and Company xuất bản tại New York năm 1991, trang 456, 475) thì có lần Darwin tâm sự với Asa Gray rằng:
“… Tôi hoàn toàn ý thức được rằng những phỏng đoán của tôi đã vượt quá giới hạn của khoa học thực sự… Nó chỉ là một mảnh vụn của một giả thuyết với nhiều sai lầm và lỗ hổng cũng như những phần đúng đắn” (…I am quite consciuos that my speculations run beyond the bounds of true science… It is a mere rag of an hypothesis with as many flaws & holes as sound parts).
Thú thực, tôi kính trọng Darwin hơn chính vì lời thú nhận nói trên, thay vì ở lý thuyết của ông. Nhưng càng kính trọng sự trung thực của ông bao nhiêu, tôi càng thất vọng với sự ngoan cố của các đệ tử của ông bấy nhiêu. Họ cố tình che đậy những lời thú nhận của Darwin bấy lâu nay. Nhưng internet đã làm họ thất bại! Sự thật đang ngày càng lộ ra, và lời tiên báo của Soren Lovtrup sẽ trở thành sự thât:
Một ngày nào đó, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như trò lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học”.
Vậy mà Charles Darwin từng được nhiều sách báo và trang mạng tôn vinh như một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại (!!!). Chẳng hạn, Darwin được coi là một trong 12 người khổng lồ trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg. Trên trang mạng Biography Online, Darwin được tôn vinh như một trong 10 nhà khoa học vĩ đại nhất, vì “đã phát triển lý thuyết tiến hóa bất chấp sự không tin tưởng và nghi ngờ, và đã sưu tập được những bằng chứng trong 20 năm, và công bố các kết luận trong cuốn On the Origin of Species năm 1859”. Thật lố bịch hết chỗ nói. Tôi không tìm được một trường hợp thứ hai nào trong lịch sử khoa học lố bịch như trường hợp này.
Nhưng dù gia công đánh bóng tên tuổi Darwin bằng cách nào đi chăng nữa, hai tác phẩm chủ yếu của Darwin, “Về nguồn gốc các loài” (1859) và “Nguồn gốc loài người” (1871) chính là 2 bằng chứng sẽ chôn vùi thanh danh của Darwin, và đến một ngày không xa, có thể tính bằng số năm tháng, học thuyết Darwin sẽ được xếp hạng như sự lừa gạt vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học. Sự thật sẽ không thể che đậy được mãi!
PVHg (https://viethungpham.com/)

Con người đến từ đâu? Đi tìm nguồn gốc của loài người

Có nhiều giải thích về cách mà con người xuất hiện trên trái đất. Các nhà khoa học nói rằng, con người đã tiến hóa từ loài linh trưởng từ hàng triệu năm về trước. Các tín đồ tôn giáo tin rằng, loài người được Thượng đế tạo ra!
Trong rất nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc của loài người, một trong số đó tin rằng: “Con người đến từ các hành tinh khác!” Chúng ta bắt đầu tìm hiểu về giả thuyết này nhé!

Con người đến từ hành tinh khác

Một cuốn sách mang tên Humans Are Not From Earth (Loài người không tới từ Trái Đất) của nhà sinh vật học, Tiến sĩ Ellis Silver đã đưa ra các đặc tính ngoại lai:
  • Con người nhạy cảm với ánh nắng mặt trời
  • Con người không ưa thích các thực phẩm có sẵn trong tự nhiên
  • Con người gặp khó khăn trong sinh nở do đầu thai nhi quá to
Tiến sĩ đưa ra giải thuyết rằng, tổ tiên loài người đã có thể đã tới Trái Đất nhờ thiên thạch hoặc sao chổi cách đây khoảng 60.000 – 200.000 năm và dần tiến hóa hoàn thiện như loài người ngày nay.
Một số người khác thì cho rằng, loài người đến từ các hành tinh khác và quyết định ở lại vì thấy trái đất này quá tuyệt vời! Như vậy con người có thể không phải là sinh vật “bản địa” như nhiều sinh vật khác.
Giả thuyết này có nhiều thứ phi logic và thực tế:
  • Tổ tiên của loài người là các vi sinh vật bám trên thiên thạch thì có thể, chứ nếu là một con người thật sự thì liệu họ có thể sống sót sau khi va chạm với trái đất không?
  • Nếu con người đến từ hành tinh khác, thì họ phải có trí tuệ vượt trội so với chúng ta. Có thể là họ đang ở cách mạng công nghiệp xxx.0! Vậy tại sao theo dòng lịch sử thì sự tiến bộ của loài ngoài đi từ thấp đến cao?
  • Khảo cổ học hàng ngàn năm qua đã không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của nền văn minh vượt trội hơn so với bây giờ. Đĩa bay, công trình kiến trúc, phương tiện hiện đại…đã đi đâu?
  • Những người du hành vũ trụ trên các đĩa bay và thấy trái đất quá lý tưởng nên quyết định ở lại, săn bắt hái lượm…và gây dựng lại từ đầu!
  • Không chỉ có loài người nhạy cảm với ánh nắng mặt trời.
  • Trong quá trình tiến hóa, khi con người phát hiện ra lửa, dạ dày của con người đã tự điều chỉnh để quen với thực phẩm chín hơn là thực phẩm có sẵn trong tự nhiên.
  • Hàng ngàn năm về trước chưa có sự can thiệp của y học thì loài người vẫn sinh nở tốt, tất nhiên là tỷ lệ sống sẽ thấp hơn hiện nay. Đầu thai nhi to là do con người đang tiến hóa về phương diện trí tuệ.
Một số người không hiểu về tiến hóa lập luận rằng, nếu con người tiến hóa từ loàn khỉ vượn thì chúng ta phải thấy hoặc chụp hình, quay phim những con khỉ vượn trong sở thú tiến hóa thành người!
Khi nói về tiến hóa, người ta nói về hàng nghìn năm, triệu năm trong khi máy ảnh, quay phim chỉ xuất hiện trong thế kỷ 18-19! Loài người nguyên thủy tiến hóa thành loài người ngày nay là một nhánh khác đã tách ra khỏi nhóm khỉ vượn nguyên thủy và hình thành giống loài mới. Nhóm khỉ vượn nguyên thủy đã phân nhánh và cho ra nhiều loại khỉ vượn mà chúng ta thấy ngày nay.
Điều này cũng giống như người châu Phi, châu Á, châu Âu…Thiên Chúa giáo thì có Công giáo, Tin lành…Phật giáo thì phân chia nhiều tông phái khác nhau.
Quá trình tiến hóa được mô tả như “bụi cây gia phả” chằng chịt nhiều nhánh và cành, một số nhánh bị tuyệt chủng, một số nhánh tiếp tục phát triển và lai tạo với nhánh khác để tạo nên sự đa dạng trên trái đất.
Tiến hóa phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có môi trường sống, thói quen, chế độ ăn uống…đã ảnh hưởng đến gen di truyền trong một quần thể. Người châu Á thì da vàng, người châu Phi thì da đen, phương Tây da trắng…
Chiều cao trung bình của người Nhật đã tăng lên 10cm so với vài chục năm về trước. Độ tuổi dậy thì trung bình đã giảm xuống so với trước đây…
Với sự tiến bộ vượt bậc trên nhiều phương diện, con người dần đẩy nhanh quá trình tiến hóa này, khi nhiều thứ mới lạ được cho vào bụng, nhiều thứ được đưa vào phổi. Trong khi đó, loài khỉ vượn trong sở thú dường như ít có sự thay đổi.
Bỏ qua giả thuyết trông có vẻ buồn cười và dí dỏm này thì 2 giả thuyết sau đây nghe có vẻ hợp lý hơn.

Con người được người ngoài hành tinh lai tạo ra

Một tác giả người Mỹ gốc Nga có tên Zecharia Sitchin đã lập luận rằng, những người ngoài hành tinh mà ông gọi là Annunaki đã lai tạo gen của Anunnaki và loài Homo Erectus (người vượn cổ) để tạo ra loài người, nhằm biến họ  thành nô lệ để khai thác vàng.
Theo Sitchin, Annunaki đến từ một hành tinh xa xôi gọi là Nibiru. Không giống như các hành tinh khác trong hệ mặt trời, Nibiru có một quỹ đạo hình bầu dục dài, cho phép nó xâm nhập vào hệ mặt trời mỗi 3.600 năm.
Erich van Däniken tác giả cuốn sách nổi tiếng “Chariots of the Gods”, khám phá ý tưởng rằng những người ngoài hành tinh chịu trách nhiệm thiết lập nhiều nền văn minh cổ đại trên trái đất.
hình vẽ kỳ lạ củng cố cho giả thuyết người ngoài hành tinh tạo ra con người
hình vẽ kỳ lạ củng cố cho giả thuyết người ngoài hành tinh tạo ra con người 2
Ông trích dẫn các ví dụ như kim tự tháp Ai Cập và Stonehenge như là bằng chứng về ảnh hưởng ngoài hành tinh trên trái đất, cũng như các hiện vật cổ đại, những hình vẽ trên vách đá trông giống như người ngoài hành tinh, tàu vũ trụ và phi hành gia.
Con người vào thời điểm đó đã xem những người ngoài hành tinh này như những vị thần như được trích dẫn trong các văn bản tôn giáo như kinh Thánh.

Con người tiến hóa từ các vi sinh vật ngoài trái đất

Panspermia hay “hạt giống ở khắp mọi nơi”, là một giả thuyết cho rằng sự sống trên trái đất bắt nguồn từ các vi sinh vật đến từ vũ trụ.
Những người ủng hộ học thuyết này trích dẫn một khoảng thời gian mà trái đất phải chịu đựng một loạt các trận mưa sao băng, khoảng 4 tỷ năm trước. Trong thời gian này, vi khuẩn và các sinh vật ngoại lai có thể được vận chuyển từ các thiên thể khác đến hành tinh của chúng ta.
Có rất nhiều vi khuẩn được tìm thấy trên trái đất có thể chịu được nhiệt độ khắc nghiệt, tương tự như những gì được tìm thấy bên ngoài không gian. Xem xét bằng chứng như vậy, có thể những sinh vật này thực sự đến từ nơi khác để giúp định hình hành tinh của chúng ta thành hiện tại.

Con người là do Thượng đế tạo ra

Nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo tin rằng, Thượng đế đã tạo ra vũ trụ và loài người. Nhưng “Thượng đế” của tôi khác một chút so với Thượng đế mà họ nghĩ. Thượng đế của tôi là một cậu sinh viên IT cùng với trò chơi của cậu.
Bởi vì có ba mẹ Thượng đế nên Thượng đế được sinh ra. Bởi vì Thượng đế tồn tại nên cậu ấy đã tạo ra trò chơi mang tên “Vũ trụ”. Bởi vì có vũ trụ và trái đất là một phần trong đó, nên cậu ấy đã tạo ra nhiều “chương trình con” chạy trên đó. Các “trí thông minh nhân tạo” này tương tác với nhau và dần cải tiến bộ mã của chúng.
Vào một ngày đẹp trời sau khi chia tay người yêu, cậu ấy đã cho một trận động đất giết chết một số người, lũ lụt mưa bão, sét đánh…Một người tốt vừa bị xe tải cán chết khi dừng đèn đỏ tại ngã tư đường – một người xấu xa vừa trúng số độc đắc!
Cậu ấy lăn ra ngủ cùng với những nỗi buồn trong lòng. Trong khi đó, các “chương trình con” trên trái đất đang cố giải thích tại sao và tại sao bằng các suy luận: Nhân quả, ngẫu nhiên, định mệnh…
Vũ trụ của cậu ấy không vô tận như chúng thường nghĩ, nhưng vì sự hiểu biết giới hạn của các “chương trình con” ở trái đất nên chúng cứ tưởng vũ trụ là vô tận và không ai tạo ra nó.
Điều này cũng giống như việc con kiến sẽ nghĩ rằng trái đất là không giới hạn, và với dòng đời của con muỗi thì nó sẽ nghĩ loài người là bất tử. Chẳng ai biết gì về châu Mỹ cho đến khi Columbus phát hiện ra nó. Trái đất hình cầu hay phẳng? Các “chương trình con” đang dần tiến hóa và cải tiến bộ mã của chúng.

Con người tiến hóa từ loài linh trưởng

Sự tiến hóa của con người là quá trình thay đổi kéo dài hàng triệu năm và có thể là bắt nguồn từ loài apelike. Bằng chứng khoa học cho thấy rằng, các đặc điểm thể chất và hành vi được chia sẻ bởi tất cả loài người vượn nguyên thủy có nguồn gốc từ tổ tiên apelike, phát triển trong khoảng thời gian 6 triệu năm về trước.
  • Một trong những đặc điểm sớm nhất của con người là khả năng đi bộ trên hai chân (bipedalism) phát triển hơn 4 triệu năm trước.
  • Các đặc điểm quan trọng khác của con người chẳng hạn như bộ não lớn và phức tạp, khả năng sáng tạo, sử dụng các công cụ và khả năng ngôn ngữ – được phát triển gần đây hơn.
  • Nhiều đặc điểm tiên tiến bao gồm biểu hiện phức tạp, nghệ thuật và sự đa dạng văn hóa nổi lên chủ yếu trong khoảng 100.000 năm qua.
Con người là loài linh trưởng. Những điểm tương đồng về thể chất và di truyền cho thấy loài người tinh khôn, Homo sapiens có mối quan hệ rất gần với một nhóm linh trưởng khác đó là giống khỉ không đuôi (Ape – tinh tinh, khỉ đột).
Loài người nguyên thủy xuất hiện đầu tiên ở châu Phi, và nhiều sự tiến hóa đã xảy ra trên lục địa đó. Các hóa thạch của những người nguyên thủy được phát hiện tại đây có niên đại từ 6 đến 2 triệu năm về trước.
Những người đầu tiên di cư ra khỏi châu Phi vào châu Á có lẽ từ 2 triệu đến 1,8 triệu năm trước. Họ vào châu Âu một thời gian sau đó, từ 1,5 triệu đến 1 triệu năm. Loài người tinh khôn (Homo sapiens) cư trú nhiều nơi trên thế giới sau này.
Ví dụ, những người đầu tiên đến châu Úc vào khoảng 60.000 năm và đến châu Mỹ vào khoảng 30.000 năm. Sự khởi đầu của nông nghiệp và sự trỗi dậy của các nền văn minh bắt đầu xuất hiện trong khoảng 12.000 năm trở lại đây.

Cổ nhân loại học – Paleoanthropology

Cổ nhân loại học (Paleoanthropology) là ngành nghiên cứu khoa học về sự tiến hóa của loài người. Cổ nhân loại học là một trường con của nhân chủng học, nghiên cứu về văn hóa, xã hội và sinh học con người.
Các lĩnh vực liên quan đến sự hiểu biết về những điểm tương đồng và khác biệt trong gen di truyền giữa con người và các loài khác: Hình thức cơ thể, sinh lý học và hành vi.
Các nhà cổ nhân loại học tìm kiếm nguồn gốc của các đặc điểm và hành vi thể chất của con người. Họ tìm cách khám phá sự tiến hóa đã định hình những tiềm năng, khuynh hướng và những hạn chế của tất cả giống loài.
Đối với nhiều người, cổ nhân loại học là một lĩnh vực khoa học thú vị, bởi vì nó điều tra nguồn gốc trong hàng triệu năm của các tính trạng phổ quát.
Tuy nhiên, một số người thấy khái niệm về sự tiến hóa của con người đang gặp rắc rối bởi vì nó có vẻ không phù hợp với niềm tin tôn giáo, và nhiều truyền thống khác về cách mà loài người, những sinh vật và thế giới được hình thành. Tuy nhiên, nhiều người đã đến để hòa giải niềm tin của họ với bằng chứng khoa học.
Các hóa thạch của con người và di vật khảo cổ sớm cung cấp những manh mối quan trọng nhất về quá khứ cổ đại của chúng ta. Những phần còn lại bao gồm xương, dụng cụ và bất kỳ bằng chứng nào khác (như dấu chân, bằng chứng về lò sưởi, hoặc vết thương trên xương động vật) do những người cổ đại gây ra.
Bằng cách nghiên cứu xương hóa thạch, các nhà khoa học tìm hiểu về sự thay đổi vật lý của con người theo thời gian. Kích thước xương, hình dạng và dấu vết của cơ bắp cho chúng ta biết tổ tiên của chúng ta đã di chuyển như thế nào, tìm kiếm thức ăn, sử dụng công cụ và kích thước bộ não của họ thay đổi như thế nào trong từng khoảng thời gian.

Quá trình tiến hóa

Quá trình tiến hóa liên quan đến một loạt các thay đổi tự nhiên tạo nên các giống loài (quần thể của các sinh vật khác nhau) trên trái đất – một số thích nghi với môi trường và một số bị tuyệt chủng.
Tất cả các loài đều bắt nguồn từ quá trình tiến hóa sinh học. Ở động vật sinh sản tình dục, bao gồm cả con người, các thuật ngữ đề cập đến một nhóm có thành viên trưởng thành giao phối với nhau và gia tăng số lượng.
Các nhà khoa học phân loại từng loài với một danh pháp để phân biệt. Trong hệ thống này, loài người tinh khôn được phân loại là Homo sapiens.
quá trình tiến hóa của loài người qua từng thời kỳ
Tiến hóa xảy ra khi có sự thay đổi ở cấp độ phân tử trong cấu trúc DNA được thừa kế từ cha mẹ, và đặc biệt là tỷ lệ các gen khác nhau trong một quần thể. Các gen đại diện cho các phân đoạn của DNA cung cấp mã hóa học để sản xuất protein.
Thông tin chứa trong DNA có thể thay đổi bởi một quá trình được gọi là đột biến. Sự đột biến này xảy do môi trường sống, chế độ ăn uống, vi khuẩn, tia phóng xạ…Đa số đột biến gen là đột biến lặn và có hại, một số ít có lợi và có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình tiến hóa.
Gen ảnh hưởng đến cách cơ thể và hành vi của một sinh vật phát triển trong cuộc sống của nó, và đây là lý do tại sao các đặc tính di truyền có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh tồn và sinh sản của một giống loài.
Tiến hóa là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Các quá trình tiến hóa làm nảy sinh sự đa dạng ở mọi mức độ tổ chức sinh học bao gồm loài, các cá thể sinh vật và cả các phân tử như DNA và protein.
Sự sống trên trái đất khởi nguồn và sau đó tiến hóa từ một tổ tiên chung từ khoảng 3,8 tỷ năm trước. Trải qua nhiều lần phân nhánh, chọn lọc tự nhiên đã tạo nên sự da dạng trên hành tinh này – một số loài tuyệt chủng, một số loài phát triển. – wikipedia.org
Theo thời gian, gen di truyền có thể làm thay đổi lối sống tổng thể của một loài, chẳng hạn như những gì nó ăn, cách nó phát triển và nơi nó có thể sống. Sự tiến hóa của con người diễn ra khi những biến đổi di truyền xuất hiện trong quần thể tổ tiên, nhằm phát triển những khả năng mới để thích nghi với sự thay đổi môi trường và lối sống mới.

Không có con người đầu tiên

Tiến hóa là một quá trình thay đổi từng chút một qua hàng triệu năm. Để truy tìm nguồn gốc loài người là không thể, bởi vì nó là một chuỗi liên kết dài vô tận mà chúng ta thì thích cắt ra một đoạn và cho rằng.
Con người từ đâu đến? Liệu con người có đến từ một hành tinh khác không? Người ngoài hành tinh hay Thượng đế có tạo ra loài người không? Hay sự xuất hiện của loài người chỉ là ngẫu nhiên do sự tương tác giữa các điều kiện trong quá trình tiến hóa!
Tốt nhất là bạn nên giữ một tâm trí cởi mở và tiếp tục khám phá chủ đề này để tạo nên giả thuyết của riêng bạn về nguồn gốc của loài người.
Hoa Sen Phật – Theo: humanorigins.si.edu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét