- Vị đại đế bạo tàn và con đường diệu kỳ trở về với Phật Pháp

A Dục Vương

Ashoka Đại Đế hay còn gọi là A Dục Vương là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nhân loại chủ trương “tự thắng mình hơn chiến thắng người khác”, ý niệm này đã biến ông từ một con người cực ác thành một con người cực thiện và mở ra biết bao viễn cảnh an lạc trong cuộc đời. Ông cũng là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử quyết định “dùng Pháp âm thay cho tiếng trống trận”…


Truyền thuyết kể rằng, trên đường du hóa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã gặp một cậu bé con nhà quyền quý đang ngồi giữa đường nhồi đất sét nặn giả làm thành trì sông núi. Cậu bé đem dâng cúng tất cả thành trì này cho đức Phật bằng cách bỏ hết vào chiếc bình bát của Ngài và phát nguyện sau này sẽ được thống trị muôn dân.
Đức Phật tiếp nhận lời nguyện ước, và báo trước rằng sau này cậu sẽ trở thành một vị vua ở thành Hoa Thị (Pataliputra) và là một ông vua tích cực hộ trì Phật Pháp. Kỳ diệu thay, hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, cậu bé cúng dường đất sét năm xưa ấy đã tái sinh thành Hoàng tử, rồi trở thành A Dục Vương – người về sau đã chinh phục đế chế bằng chính sách ‘bàn tay sắt đẫm máu’, cuối cùng trở thành đại đế của vương quốc Ấn Độ cổ rộng lớn. Người đã từng được miêu tả như là “A Dục bạo chúa” (Chandashoka), và cũng là một “A Dục sùng đạo” (Dharmashoka).

Hoàng Đế A Dục, là vị vua thứ ba của triều đại Mauryan, Ấn Độ. Ông sinh năm 304 trước Công Nguyên (TCN) tại thành Hoa Thị, kinh đô Ma Kiệt Đà, ông vốn là con cháu 9 đời của Vua Tần Bà Sa La. Vua A Dục lên ngôi năm 269 TCN khi ông tròn 35 tuổi, trị vì được 38 năm và băng hà vào năm 232 TCN, thọ thế 73 tuổi. A Dục Vương Đại Đế (A-sho-ka) được xem là ông vua vĩ đại nhất của vương quốc Ấn Độ cổ, và là vị hoàng đế đầu tiên đã cai trị một đế chế rộng lớn trong khoảng thời gian lâu dài: từ 273 đến 232 TCN.

Từ một đấng quân vương khét tiếng bạo tàn

A Dục Vương tính tình nóng nảy và bạo tàn đến nỗi từng giết sạch những vị đại thần và thân quyến trước khi lên ngôi.

Sau khi lên ngôi, A Dục Vương đã phát động những cuộc xâm lăng và mở rộng bờ cõi của mình liên tiếp trong tám năm ròng, để rồi sở hữu một đế quốc với phạm vi vô cùng rộng lớn từ Ấn Độ ngày nay trải dài đến Pakistan, Bangladesh, Afghanistan và Iran.

Cố nhiên, hệ quả của những đợt chinh phạt này là các cuộc chiến tranh, chết chóc đẫm máu. Cuộc chiến cuối cùng do Vua A Dục cầm quân đã diễn ra tại Kalinga, nằm trên bờ biển phía đông Ấn Độ (ngày nay là Orissa). Kết cục là quân Asoka chiến thắng, Kalinga thất thủ và bị tiêu diệt.

Hệ quả của những đợt chinh phạt của vua A Dục là các cuộc chiến tranh, chết chóc đẫm máu. (Ảnh minh họa: preceden.com)

Sau trận chiến khoảng 10 ngàn quân của A Dục Vương thiệt mạng nhưng có đến 100.000 người phía Kalinga đã bị giết một cách dã man cùng với đó là 150.000 người bị bắt làm tù binh.

Truyền thuyết kể lại rằng trong thời gian tại vị, A Dục Vương từng cho người xây một khu vườn lớn gọi là: “Ái Lạc viên”, thực ra đó là một “Địa ngục trần gian”, bên ngoài trang trí cực kỳ đẹp đẽ với ao sen, hòn non bộ, và đủ thứ kỳ hoa dị thảo, để cho dân tình mặc sức đến đó mà thưởng thức giải trí. Phía trong Ái Lạc viên lại có non đao rừng kiếm, lò lửa vạc dầu, và đủ các món khí cụ để hành hình con người một cách ghê gớm. Hễ người nào đi lạc vào bên trong vườn Ái Lạc thì kẻ đó lập tức sẽ bị ngục tốt bắt giam và hành hình. Những thế nữ ở trong cung mà cãi cọ, xung đột với nhau, cũng bị bắt đem vào cho chủ ngục hành quyết. Thật là một thảm trạng thống khổ của nhân gian lời lẽ không thể nào kể xiết.

Rồi một ngày nọ có một vị Tỳ kheo, nhân đi khất thực nơi thành Hoa Thị, vì không thông thạo đường xá nên mới bị lạc vào “Ái Lạc viên”. Nhìn thấy cảnh tượng bên ngoài thì tốt đẹp lạ lùng, còn phía trong quả là một chốn địa ngục, Tỳ kheo hoảng kinh, toan kiếm đường trở ra, ai ngờ bị ngục tốt đón bắt lại. Vị Tỳ kheo van nài mà bọn ấy không dung thứ, nên thầy bèn òa khóc. 
Chủ ngục thấy vậy liền hỏi:
– Thầy là người tu hành, sao mà sợ chết đến nỗi khóc như con nít vậy?
Vị Tỳ kheo đáp:
– Tôi chẳng phải sợ chết mà khóc, chỉ vì tâm nguyện tu hành chưa thỏa nên mới bi ai đến vậy.
Chủ ngục lại hỏi:
– Tâm nguyện tu hành thế nào, ngươi nói cho ta nghe thử?
– Vị Tỳ kheo đáp:
– Số là tôi mới xuất gia, chưa chứng đặng đạo quả. Tôi nghĩ lại thân người khó đặng, Phật pháp khó gặp, nay rủi sa vào chỗ ác địa này, thế nào cũng phải hủy bỏ thân mạng, thì còn đâu mà tu học nữa, mà không tu học thì còn biết cơ hội nào để đạt được giải thoát và giác ngộ, do vậy mà tôi mới khóc, chứ tôi nào có sợ chết.

Vị Tỳ kheo nói rồi, mới khẩn cầu với chủ ngục xin ông ta cho mình được sống sót trong bảy ngày, rồi sẽ hành hình sau đó cũng không muộn. Chủ ngục thấy người tu hành khẩn thiết van nài cũng động tâm, bèn y đó mà đình lại bảy ngày mới toan hạ thủ.

Vị Tỳ kheo bị lạc vào “Ái Lạc viên”. (Ảnh minh họa: mettapage.org)

Ngày đầu, vị Tỳ kheo nhìn thấy những hình phạt rất độc ác: nào là người phụ nữ thân hình tốt đẹp mà bị bỏ vào cối quết, xương tan thịt nát, xem rất ghê sợ; nào là bọn ca nhi nhan sắc tuyệt trần, cũng bị quăng vào lò lửa, người thì rút tay co cổ, kẻ thì há miệng nhăn răng. Vị Tỳ kheo thấy cảnh tượng ấy thì sinh lòng nhàm chán, mới nhớ lời Phật dạy rằng: “Sắc lịch dịu dàng dường như bọt nước, dung y đẹp đẽ mà đâu còn hoài”. Nhờ quán tưởng đến lời Phật dạy như thế mà Tỳ kheo tỏ ngộ, dứt hết các điều tạp nhiễm, liền chứng đặng quả A La Hán.

Đến ngày thứ tám, ngục tốt bèn bắt vị Tỳ kheo đem bỏ vào chảo dầu, rồi chất củi mà đốt. Song khi lửa hạ và củi thành tro mà dầu trong chảo vẫn không nóng. Chủ ngục thấy vậy nổi giận, đánh đập bọn ngục tốt, rồi hối chất thêm củi và chụm thêm vào mãi, nhưng khi xem lại trong chảo dầu vẫn thấy vị Tỳ kheo ngồi kiết già trên một đóa hoa sen, xem dáng vẻ tự nhiên không hề lay động chút nào cả.
Chủ ngục hoảng kinh, lật đật đến tâu lại sự tình cho A Dục Vương rõ. Vua A Dục tính nóng như lửa, khi nghe tin ấy liền tức tốc đi thẳng đến vườn Ái Lạc. Vào đến nơi thì thấy vị Tỳ kheo đang bay lên giữa hư không, biến đủ 18 phép thần thông, trên người phun nước, bên dưới thì ngọn lửa vẫn đang cháy giần giật. Vua A Dục đứng nhìn sửng sốt một hồi, rồi tự nghĩ: “Mình với Thầy Tỳ kheo này cũng đều là loài người như nhau cả, cớ sao Thầy lại đặng phép thần thông tự tại như thế, còn mình thì lo việc sát hại nhân dân, làm việc đại ác”?

Đến con đường trở về với Phật Pháp
Lại nói ngay tại thời điểm đó, từ trên đỉnh cao tột cùng của một vị Đại Đế, A Dục Vương đã nhận ra sai lầm của mình: ngai vàng này, giang sơn này là có được từ sự tham lam, hung bạo và tàn sát. Chính nó được thiết lập từ thảm hoạ của chiến tranh, từ thương vong tang tóc, từ máu đổ thịt rơi của hàng vạn người dân vô tội, nên ông đã quyết tâm quay trở về với con đường thiện lành: ‘Phóng hạ đồ đao, nhất tâm hướng Phật’.

Ngay tại thời điểm đó, A Dục Vương đã quyết tâm quay trở về với con đường thiện lành. (Ảnh minh họa: timetoast.com)

A Dục Vương vội vàng quỳ xuống bạch với vị Tỳ kheo ấy rằng:
– Ngưỡng mong Thánh giả chiếu cố đến tôi, xin hạ xuống nơi đây, tôi nguyện từ đây về sau bỏ dữ làm lành mà quy y với Ngài.

Vị Tỳ kheo đáp:
– Hay thay! Hay thay! Nay đại vương đã tự hối mà biết quy hướng về Tam Bảo thì đó là phúc đức của muôn dân.

Tỳ kheo nói xong, liền dùng thần lực của mình mà bay trở về phía tịnh xá.
Kể từ đó về sau, A Dục Vương nguyện quy y Tam Bảo, bỏ ác làm lành, cứu người thương vật nên ông được người đời ca tụng là Đạt Ma A Dục Vương. Về sau lại nhờ Tổ Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) giáo hóa thêm, nên vua càng tín ngưỡng Phật pháp hơn nữa, chính vua đã phái 256 vị Cao tăng đi khắp trong xứ để truyền bá Phật giáo:
“Chỉ có sự chiến thắng của Đạo Pháp mới thực là một cuộc chiến thắng vô thượng; ai ai cũng nhờ cuộc chiến thắng ấy mà được an cư lạc nghiệp”.
Đó là lời tuyên bố của Đại đế A Dục (A-sho-ka) sau khi ông trở về với Phật Pháp.

Ashoka Đại Đế là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử nhân loại chủ trương “tự thắng mình hơn chiến thắng người khác”, ý niệm này đã biến ông từ một con người cực ác thành một con người cực thiện và mở ra biết bao viễn cảnh an lạc trong

A Dục Vương: Một ông vua hộ trì Phật pháp
Có thể nói A Dục Vương là nhà chiêm bái Phật tích đầu tiên và cũng là người có công duy hộ cho những di chỉ Phật tích ấy.

Vào năm thứ 20 – niên hiệu A-sho-ka, vua A Dục đã cầu thỉnh ngài Ưu Ba Cúc Đa đưa đi chiêm bái hết tất cả những Phật tích tại Ấn Độ. Nhà vua cùng với hoàng gia Khổng Tước dưới sự hướng dẫn của Ưu Ba Cúc Đa đã thực hiện cuộc hành trình này trong vòng 265 ngày để đến tận nơi và chiêm bái hết tất cả những thánh tích tại Ấn Độ.

Sau mỗi chuyến đi, từ Lâm Tỳ Ni cho đến Câu Thi Na, tại mỗi thánh tích vua A Dục đều cho xây dựng bảo tháp, bia đá và trụ đá để đánh dấu những nơi mà Đức Phật đã từng lưu trú và thuyết giảng lúc còn tại thế. Chính nhờ những trụ đá, bia đá này mà ngày nay thế nhân và các tăng ni phật tử mới có được những hiểu biết chân xác hơn về lịch sử Phật giáo.

Những trụ đá Ashoka trường tồn cùng lịch sử
Nếu như triều đại A Dục đã lụi tàn cùng với vòng xoay con tạo và biết tháng năm thăng trầm của lịch sử, thì chính những bia đá, trụ đá của A Dục Vương lại để lại những dấu vết không bao giờ bị xóa nhòa. Những chứng tích của vị vua khôn ngoan này đã được các nhà khảo cổ khai quật và tìm thấy rải rác trên khắp Ấn Độ cũng như ở các quốc gia Nepal, Pakistan và Afghanistan. Trên nền hoa văn được chạm khắc tinh xảo, đầy tính thẩm mỹ của những trụ đá Ashoka này còn khắc ghi những lời Phật dạy và được gìn giữ một cách cẩn thận để nhân dân có thể tham chiếu và áp dụng vào đời sống thường nhật.

Ngoài những bài kinh Phật, các bản dịch sớm nhất từ các trụ đá, bia đá còn cho ta thấy nỗ lực của một vị quân vương hùng mạnh đã kiến thiết một quốc gia dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức Phật giáo với một chính sách an dân vượt lên trên mọi biểu hiện tham lam, sân hận và si mê của kiếp người. Đặc biệt qua những trụ đá, bia đá này, ta thấy được vua A Dục là một Phật tử thuần thành, thấm nhuần giáo lý của đức Phật. Ông cũng là người luôn biết thực hành theo lời Phật dạy và đạt được những lợi ích thiết thực cho chính bản thân mình, cuối cùng A Dục Vương muốn đem những lợi ích đó để chia sẻ với mọi con dân trong vương quốc, bằng cách ra lệnh cho khắc huấn dụ của mình lên vách đá khắp nơi rằng: “Nếu quần chúng sau khi nghe được lời Phật dạy và thực hành theo sẽ đạt được lợi ích trong chính Pháp”.

Vua A Dục thực sự là một Phật tử thuần thành, thấm nhuần giáo lý của đức Phật. (Ảnh minh họa: mahakumbhfestival.com)

Nhà vua cũng khuyên bảo người dân thực hành không sát sinh, hiếu kính cha mẹ và các bậc trưởng thượng, tôn trọng bậc làm thầy, cung kính các Sa Môn, xử sự tốt với thân bằng quyến thuộc, đối đãi nhân hậu với kẻ làm công, người giúp việc, giúp đỡ người già, người nghèo khó, kẻ khổ đau… Ngoài ra trong một bia ký khác, vua A Dục đã cho khắc bản Kinh chân hạnh phúc (Mahamangala Sutta), đây là một bản kinh mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy về đời sống đạo đức của những Phật tử tại gia, nếu áp dụng đúng thì hạnh phúc sẽ đến với họ ngay trong đời sống hiện tại này, dưới đây là một đoạn bản dịch – chỉ mang tính chất tham khảo:

“Kẻ si mê nên tránh 
Bậc hiền đức phải gần
Chọn nơi lành mà ở 
Luôn giữ lòng thẳng ngay
Hiểu rộng và làm hay
Giữ tròn các giới luật 
Luôn nói lời hòa ái 
Cung dưỡng mẹ cha già”…

Tại thánh tích Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Đức Phật giáng trần, A Dục Vương đã cho dựng một trụ đá cao 15 mét, hiện nay vẫn còn tồn tại khá nguyên vẹn, được bao bọc bởi một hàng rào sắt để bảo hộ. Trên trụ đá này có ghi hàng chữ như sau:
“Sau hai mươi năm lên ngôi, vua Priyadarsi (Vương hiệu của Vua A Dục), người được chư thiên yêu mến, đã thân hành viếng thăm và lễ bái nơi đây, bởi vì chính tại nơi này Đức Phật Thích Ca đã được ra đời”. (Twenty years after his coronation, King Priyadarsi, Beloved of the Gods, visited this place himself and worshipped here saying, here Buddha Sakyamuni was born).
Thánh tích Lâm Tỳ Ni. (Ảnh: easynepal.com)

Tại vườn Lộc Uyển (Sanarth), nơi Đức Phật từng truyền giảng Pháp, vua A Dục cũng đã đến đó chiêm bái và cho dựng một trụ đá rất lớn (đường kính 7 tấc, cao 15,25 mét) để đánh dấu nơi đức Phật thiết lập Tam Bảo, mở đầu cho công cuộc truyền bá chính Pháp. Đáng tiếc thay, trụ đá này đã bị quân xâm lăng Hồi giáo của Mohammed Ghori hủy diệt, trụ đá bị xô ngã và gãy thành nhiều khúc, chôn vùi dưới lòng đất cho đến khi nhà khảo cổ Kittoe đào bới lên vào năm 1934. Hiện chỉ còn phần trên của trụ đá với bốn con sư tử là giữ được nguyên vẹn và được chính phủ Ấn Độ cho đem trưng bày trong Viện bảo tàng khảo cổ học Lộc Uyển, còn năm khúc gãy khác của trụ đá được tôn trí ngay tại địa điểm khai quật (trong khuôn viên vườn Lộc Uyển), dưới một mái che và được bao bọc bởi một hàng rào sắt để gìn giữ bảo vật vô giá này. Phần dưới trụ đá, có khắc hàng chữ bằng tiếng Brahmi:
“Đấng Thiên nhân sư đã dạy rằng: Giáo hội Tăng Ni không được chia rẽ. Nếu có vị Tỳ-kheo nào phá hoại Giáo hội, vị ấy phải mặc đại y và ở tại một chỗ thanh tịnh chí thành sám hối”…

“Hàng cư sĩ tại gia mỗi ngày rằm hay mùng một phải đến dự họp kiểm thảo nhau để thêm phần tinh tấn về đạo nghiệp. Và các ngày lễ Phật, các quan chức phải đến dự lễ để được thêm phần tin tưởng về đạo đức. Các cấp quận, huyện, xã dù xa xôi thế nào, cũng phải truyền rộng chỉ thị này theo đúng nghĩa của nó cho dân chúng tuân theo”.

Tại thành Tỳ Xá Ly (Vaishali), một thành phố quan trọng vào buổi đầu Phật giáo, nơi Đức Phật cho phép hàng nữ giới xuất gia, là quê hương của cư sĩ Duy Ma Cật, nơi Tôn giả A Nan nhập niết bàn, hiện là Basarh cách Patna khoảng hơn 20 dặm về phía Tây bắc, giữa sông Hằng và rặng Tuyết Sơn. Ngay bên cạnh Bảo Tháp tưởng niệm tôn giả A Nan, còn một trụ đá do vua A Dục dựng lên để tưởng nhớ đến công đức hoằng pháp của Đức Phật tại nơi này. Trụ đá tròn cao khoảng 10 thước, trơn láng, trên đầu có hình một con sư tử, dù không đẹp bằng trụ đá sư tử bốn đầu ở Sarnath, vườn Lộc Uyển, nhưng vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn.
Trụ đá do vua A Dục dựng lên tại thành Tỳ Xá Ly. (Ảnh: vaishalimuseum.org)

Trong khi đó, tại Sanchi, một thành phố miền trung Ấn Độ, cách Bom Bay khoảng 549 dặm, một địa điểm ít khi được nhắc đến trong văn học Phật giáo, nhưng ngạc nhiên thay, chính Vua A Dục đã cho xây dựng một tu viện và một Đại bảo tháp tại nơi này với lối kiến trúc lộng lẫy và đẹp mắt. 

Đáng chú ý nhất là trên cổng vào Đại tháp, có một bản chạm nổi hiếm thấy, mô tả sự chiêm bái của vua A Dục trước cội Bồ đề ở Bodhgaya. Tại sao Sanchi là nơi đức Phật chưa từng đi qua mà lại có thánh tích này? Đơn giản là vì Sanchi vốn là quê vợ của vua A Dục. Khi chưa lên ngôi, ông từng làm Phó vương ở đây và kết hôn với thiếu nữ Devi ở Vedisa, một thị trấn cách Sanchi khoảng vài dặm, do vậy mà đức vua muốn biến nơi đây thành một trung tâm sinh hoạt Phật giáo để mang ánh sáng giác ngộ đến cho người dân ở ngôi làng này. 

Điều đặc biệt là ở Sanchi có rất nhiều trụ đá do A Dục Vương dựng tại khu thánh tích này. Hiện còn một Đại bảo tháp và một trụ đá khác do vua A Dục dựng lên tại cửa phía nam của ngôi Đại tháp nhưng chỉ còn thân trụ và bảng đá, vì trụ đá này về sau đã bị một người dân tên là Semindar phá hủy để làm dụng cụ ép mía đường!
***
Dẫu là một ông vua cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy tột bậc nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn luôn coi mình là một một tín đồ thuần thành của Phật giáo, một quân vương hộ trì Phật pháp. Ông đã đem hết công sức của mình để truyền rộng ánh sáng trí huệ và từ bi của Phật pháp đến muôn nhà. 

Dưới ánh sáng từ bi của Phật pháp, A Dục Vương đã xây dựng nên một triều đại vô cùng phồn vinh trên mọi lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục… ông đã kiến tạo và duy trì được một xã hội yên bình, an lạc và đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Chủ trương tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, khoan dung, bất bạo động của A Dục Vương vẫn mãi mãi là nét đẹp và biểu trưng của văn hóa truyền thống Ấn Độ nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.

Đường Phong – tổng hợp - (Tài liệu tham khảo: ‘Đại đế A Dục, một ông vua hộ trì Phật Pháp’ – Thích Nguyên Tạng).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét