Chùa Việt Nam: Thiền viện Nguyên Thủy – Nơi tu tập về Thiền định
Được thành lập vào năm 1970, thiền viện Nguyên Thủy là tên gọi mới của chùa Nguyên Thủy, thuộc hệ phái Nam Tông. Từ ngày thành lập đến nay đã trải qua 5 đời trụ trì, mỗi đời các trụ trì đều có sự đóng góp đáng kể cho sự nghiệp hoằng pháp, phổ độ chúng sanh.
Các Khóa Thiền Vipassana cho Người Việt do Thiền Sư S. N. Goenka giảng dạy
Giới Thiệu Phương Pháp và Nội Quy Khóa Thiền
Giới Thiệu Phương Pháp và Nội Quy Khóa Thiền
Giới Thiệu Phương Pháp
chung, không liên quan đến một tổ chức tôn giáo hoặc một tông phái nào. Vì lý do này, Vipassana được mọi người thực tập, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, không bị chi phối bởi dân tộc, địa phương hay tôn giáo. Và Vipassana sẽ chứng minh rằng mọi người ai cũng hưởng được những lợi ích như nhau.
Vipassana không phải là:
. Nghi lễ, nghi thức dựa trên lòng tin mù quáng.
. Sự giải trí tri thức hoặc triết lý.
. Cách để chữa bệnh, nghỉ mát, hay là một cơ hội để xã giao.
. Sự trốn tránh những thử thách, phiền toái trong cuộc sống hằng ngày.
Vipassana là:
. phương pháp diệt trừ đau khổ.
. phương cách thanh lọc tâm để giúp ta đối phó với những căng thẳng và khó khăn của cuộc sống một cách bình tĩnh, quân bình.
. một nghệ thuật sống mà ta có thể sử dụng để đóng góp tích cực cho xã hội.
Thiền Vipassana hướng đến mục tiêu tâm linh cao cả nhất là sự giải thoát hoàn toàn và giác ngộ; mục đích của Vipassana không bao giờ chỉ để chữa bệnh. Tuy nhiên, nhờ sản phẩm phụ của sự thanh lọc tâm, nhiều bệnh tâm thần cũng được chữa khỏi. Quả thật, Vipassana loại trừ được ba nguyên nhân căn bản của mọi khổ đau: ham muốn, ghét bỏ, và vô minh (tham, sân, si). Với sự thực tập liên tục, tu tập thiền giải tỏa được những căng thẳng do cuộc sống hằng ngày gây ra, tháo gỡ những khúc mắc do thói quen cố hữu là phản ứng đối với những hoàn cảnh dễ chịu hay khó chịu một cách thiếu bình tĩnh.
Mặc dù Vipassana là phương pháp do Đức Phật tìm ra, sự thực hành không chỉ giới hạn cho Phật tử. Tuyệt đối không có sự cải đạo. Mọi người đều gặp những khó khăn giống nhau, và một phương pháp có thể giải quyết những khó khăn này cần được áp dụng chung cho nhân loại. Nhiều người từ nhiều giáo phái khác nhau đã hưởng được những lợi ích nhờ thực hành thiền Vipassana và thấy không có gì xung khắc với tín ngưỡng của họ.
Thiền và Kỷ Luật Tự Giác
Tiến trình tự thanh lọc tâm chắc chắn không bao giờ dễ dàng – thiền sinh phải tu tập rất cần mẫn. Bằng nỗ lực của chính mình, thiền sinh đạt được sự tự chứng, không một ai có thể làm giùm cho họ. Do đó, thiền chỉ thích hợp với những người sẵn sàng tu tập chuyên cần và tuân theo kỷ luật được đặt ra vì lợi ích và để bảo vệ người tu tập và là một phần quan trọng trong việc hành thiền.Chắc chắn mười ngày là một thời gian rất ngắn để thâm nhập vào những tầng lớp sâu nhất của tâm vô thức và học được cách diệt trừ những bất tịnh nằm tại đó. Liên tục tự mình tu tập là bí quyết để thành công của phương pháp này. Điều lệ và nội quy được đặt ra với sự chú trọng đến phương diện thực tiễn này. Chúng không phải vì lợi ích của thiền sư hoặc ban quản lý khóa thiền; hoặc là những truyền thống tiêu cực, cổ hủ, hoặc lòng tin mù quáng của một vài tổ chức tôn giáo. Trái lại, điều lệ và nội quy được đúc kết dựa trên kinh nghiệm thực tế của hàng ngàn thiền giả trong nhiều năm, rất khoa học và hợp lý. Việc tuân theo nội quy sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hành thiền; ngược lại sẽ gây ô nhiễm cho môi trường ấy.
Thiền sinh phải lưu trú tại trường thiền trong suốt thời gian của khóa thiền. Những điều lệ khác cũng nên được đọc kỹ và cân nhắc. Chỉ những người cảm thấy mình có thể tuân theo một cách thành thật và triệt để mới nên nộp đơn xin tham dự. Những người chưa sẵn sàng để cố gắng tuân theo sẽ chỉ lãng phí thì giờ của mình, và tệ hơn nữa là sẽ làm phiền những người tu tập nghiêm chỉnh khác. Thiền sinh cũng phải hiểu rằng khi mình nhận thấy kỷ luật quá khắt khe, và bỏ về nửa chừng, không hoàn tất khóa thiền, sẽ rất bất lợi và không được phép. Cũng tương tự, thật đáng tiếc, mặc dù đã được nhắc nhở nhiều lần, thiền sinh nào không tuân theo kỷ luật sẽ không được tiếp tục dự khóa tu.
Bệnh Tâm Thần Nặng
Thỉnh thoảng cũng có những người bị bệnh tâm thần nặng tham dự khóa thiền Vipassana với hy vọng thiếu thực tế là phương pháp này sẽ chữa khỏi hoặc làm giảm bớt bệnh. Bất ổn trong những mối quan hệ cá nhân và những cách chữa trị khác nhau là những yếu tố khiến những người này khó có được lợi ích từ khóa thiền, hay thậm chí, khó có thể hoàn tất khóa thiền mười ngày. Khả năng của chúng tôi, một tổ chức tự nguyện không chuyên nghiệp, khiến chúng tôi không thể nào chăm sóc cho những người này. Mặc dù hữu ích cho hầu hết mọi người, thiền Vipassana không thể thay thế cho thuốc và cách chữa trị tâm thần và chúng tôi thấy Vipassana không phù hợp với những người mắc bệnh tâm thần nặng.
Nội Quy
Nền tảng của sự tu tập là Sīla – giới hay đạo đức. Sīla tạo căn bản cho sự phát triển Samādhi – định tâm; và sự thanh lọc tâm đạt được nhờ Paññā – trí tuệ hay tuệ giác.
Giới
Mọi người tham dự khóa thiền Vipassana phải luôn luôn giữ Năm Giới sau đây trong thờigian của khóa thiền:1. tránh không giết hại sinh vật,
2. tránh không trộm cắp,
3. tránh không quan hệ tình dục,
4. tránh không nói sai sự thật,
5. tránh không dùng chất gây say/nghiện,
Những thiền sinh cũ (đó là những người đã hoàn thành một khóa thiền với Thiền sư S. N. Goenka hoặc một Thiền sư phụ tá) còn phải tuân theo ba giới luật sau đây:
6. tránh không ăn sau 12 giờ trưa,
7. tránh không tiêu khiển theo khoái cảm và trang điểm
8. tránh không ngủ trên giường cao và sang trọng.
Thiền sinh cũ giữ giới thứ sáu bằng cách chỉ dùng nước trà không sữa và nước trái cây trong giờ giải lao lúc 5 giờ chiều, trong khi đó thiền sinh mới có thể dùng trà với sữa và trái cây. Thiền sư có thể cho phép một thiền sinh cũ không phải giữ giới này vì lý do sức khỏe. Tất cả đều phải giữ giới thứ bảy và thứ tám.
Tuân Phục Thiền Sư và Phương Pháp
Trong thời gian khóa thiền, thiền sinh phải hứa sẵn sàng tuân theo mọi sự hướng dẫn và chỉ dẫn cách tu tập của thiền sư. Đó là, tuân theo kỷ luật và hành thiền đúng như sự yêu cầu của thiền sư, không bỏ bớt một phần nào cũng như không thêm vào điều gì. Sự tuân phục phải rõ ràng với sự hiểu biết, chứ không phải là sự phục tùng mù quáng. Chỉ với thái độ tín cẩn này thiền sinh mới có thể tu tập cần mẫn và sốt sắng. Đặt niềm tin như thế vào thiền sư và phương pháp là yếu tố quan trọng cho sự thành công khi hành thiền.
Những Phương Pháp Khác, Nghi Lễ, và Những Hình Thức Thờ Phụng
Trong khóa thiền, điều tối quan trọng là mọi hình thức cầu nguyện, cúng bái, hay các nghi lễ tôn giáo – nhịn ăn, thắp nhang, lần tràng hạt, tụng niệm, ca hát, nhảy múa, … phải tạm ngưng. Tất cả những phương pháp thiền khác và các loại kỹ thuật chữa bệnh hay luyện tập về tâm linh khác cũng phải tạm ngưng. Đây không phải là sự lên án những đường lối hoặc phương pháp khác, nhưng là để thử phương pháp Vipassana một cách công bằng trong sự thuần khiết của nó.
Thiền sinh được khuyến cáo rõ ràng là nếu cố tình pha trộn những phương pháp thiền khác vào Vipasana sẽ ngăn cản hoặc làm giảm sút sự tiến bộ. Mặc dù được Thiền sư cảnh cáo nhiều lần, trong quá khứ vẫn có những trường hợp thiền sinh cố tình pha trộn phương pháp này với nghi lễ hoặc một phương pháp thiền khác, và đưa đến nhiều tai hại. Cần phải đến gặp thiền sư để làm sáng tỏ mọi thắc mắc và nghi ngờ.
Gặp Thiền Sư
Thiền sư giành thời gian từ 12 giờ trưa đến 1 giờ cho thiền sinh đến vấn đáp riêng. Thiền sinh cũng có thể hỏi công khai từ 9 giờ đến 9 giờ 30 tối tại thiền đường. Những giờ vấn đáp này là để làm sáng tỏ phương pháp thực hành và để trả lời những câu hỏi phát sinh từ các bài giảng buổi tối.
Sự Im Lặng Thánh Thiện
Mọi thiền sinh phải giữ Sự Im Lặng Thánh Thiện từ lúc bắt đầu khóa thiền cho đến buổi sáng ngày cuối. Sự Im Lặng Thánh Thiện nghĩa là sự im lặng của thân, khẩu, và ý. Mọi hình thức liên lạc với người đồng tu, bằng cử chỉ, ra dấu, ghi giấy, … đều không được cho phép.
Tuy nhiên, thiền sinh có thể nói với thiền sư khi cần thiết và có thể gặp ban quản lý khi có những vấn đề liên quan đến thực phẩm, tiện nghi, sức khỏe,… Nhưng những liên lạc này cũng phải được giữ ở mức tối thiểu. Thiền sinh phải giữ thái độ là mình đang tu tập trong sự cô lập.
Sự Cách Biệt giữa Nam và Nữ
Phải duy trì sự cách biệt hoàn toàn giữa nam và nữ. Những cặp vợ chồng hay người yêu, không được liên lạc với nhau dưới bất cứ hình thức nào trong khóa thiền. Điều này cũng áp dụng cho bạn bè, người trong cùng gia đình, …
Đụng Chạm Thân Thể
Vì bản chất cô lập của phương pháp thiền, điều quan trọng là trong suốt khóa, thiền sinh tránh mọi sự đụng chạm thân thể với người cùng phái hoặc khác phái.
Yoga và Tập Thể Dục
Mặc dù tập yoga và thể dục phù hợp với Vipassana, nhưng thiền sinh phải tạm ngưng vì không có sẵn khu vực và phương tiện dành riêng cho các loại thể dục này tại trường thiền. Chạy bộ cũng không được phép. Thiền sinh có thể vận động bằng cách đi bộ trong khu vực dành riêng cho nam hoặc cho nữ.
Dụng Cụ Tín Ngưỡng, Tràng hạt, Bùa, Hình, Tượng,…
Không được mang vào trung tâm thiền bất kỳ một vật nào kể trên. Nếu vô tình mang theo, cần phải giao cho ban quản lý giữ giùm trong thời gian khóa thiền.
Chất Gây Say và Ma Túy
Không được mang ma túy, rượu, hoặc những chất gây say khác vào trường thiền; điều này cũng áp dụng cho thuốc an thần, thuốc ngủ, và tất cả các loại thuốc giảm đau. Những người dùng thuốc theo toa bác sĩ nên thông báo cho thiền sư.
Thuốc Lá
Vì sức khỏe và sự thoải mái cho tất cả thiền sinh, hút, nhai, ngửi thuốc lá đều bị cấm trong khóa thiền.
Thực Phẩm
Không thể nào làm thỏa mãn sở thích và nhu cầu của từng thiền sinh, do đó thiền sinh được yêu cầu vui lòng chấp nhận những món ăn chay đơn giản được phục vụ. Ban quản lý cố gắng chuẩn bị những thực đơn bổ dưỡng và quân bình, thích hợp cho sự thực hành thiền. Nếu thiền sinh nào phải dùng những thức ăn đặc biệt vì lý do sức khỏe, nên thông báo cho ban quản lý biết khi nộp đơn. Không được phép nhịn ăn.
Quần Áo
Quần áo nên giản dị, lịch sự, và thoải mái. Không nên mặc quần áo chật bó, mỏng manh, hở hang hoặc sặc sỡ (như quần soọc, váy ngắn, quần hoặc vớ bó, áo quá ngắn hoặc không có tay). Không được phép phơi nắng hoặc để thân thể hở hang. Điều này quan trọng để tránh gây phân tâm cho người khác.
Tắm Giặt
Vì không có máy giặt hay máy sấy nên thiền sinh cần mang theo đầy đủ quần áo. Có thể giặt bằng tay những thứ nhỏ. Chỉ có thể tắm giặt trong giờ nghỉ, không tắm giặt trong giờ thiền.
Liên Lạc với Bên Ngoài
Thiền sinh phải ở trong phạm vi trường thiền trong suốt khóa. Thiền sinh chỉ được phép rời trường thiền với sự đồng ý đặc biệt của thiền sư. Thiền sinh không được phép liên lạc với bên ngoài trước khi khóa thiền chấm dứt. Sự liên lạc bao gồm thư từ, điện thoại, khách khứa. Điện thoại di động, máy nhắn tin, và mọi thiết bị điện tử khác phải được giao cho ban quản lý giữ cho tới khi khóa thiền chấm dứt. Trong trường hợp khẩn cấp, bạn hoặc thân nhân của thiền sinh có thể liên lạc với ban quản lý.
Nghe nhạc, Đọc và Viết
Không được phép nghe nhạc, mở radio, v.v.. Không được mang sách báo, giấy bút vào khóa thiền. Thiền sinh không nên làm mình phân tâm bằng cách ghi chép. Hạn chế việc đọc và viết là để nhấn mạnh tính thực tế của phương pháp thiền này.
Máy Ghi Âm và Máy Chụp Hình
Không được sử dụng những thứ này trừ trường hợp được thiền sư cho phép.
Tài Chánh cho Khóa Thiền
Theo truyền thống tinh khiết của Vipassana, những khóa thiền được tổ chức hoàn toàn do sự đóng góp tự nguyện. Chỉ những đóng góp của thiền sinh cũ mới được chấp nhận, nghĩa là, những người đã hoàn tất một khóa thiền với thiền sư S. N. Goenka hay thiền sư phụ tá của ngài. Những thiền sinh tham dự khóa thiền lần đầu tiên có thể đóng góp vào ngày cuối khóa hoặc bất cứ lúc nào sau đó.Bằng cách này, những khóa thiền được tài trợ bởi những người nhận ra được lợi ích của thiền. Mong muốn được chia sẻ lợi ích với những người khác, họ đóng góp tùy theo khả năng và ước muốn. Những sự đóng góp như thế là nguồn tài chánh duy nhất cho những khóa thiền trên khắp thế giới. Không có một hiệp hội hoặc một cá nhân giàu có nào tài trợ cả. Các thiền sư cũng như những người tổ chức đều không nhận bất cứ một thù lao nào cho sự phục vụ của mình. Do đó, Vipassana được quảng bá với mục đích tinh khiết, không bị thương mại hóa.
Dù là nhiều hay ít, sự đóng góp phải được thực hiện với ước nguyện giúp đỡ người khác: “Khóa thiền mà tôi đã tham dự được đài thọ do lòng hảo tâm của những thiền sinh cũ: bây giờ để tôi đóng góp cho một khóa sắp tới, để cho những người khác cũng hưởng được những lợi ích của phương pháp này”.
Tóm Tắt
Để làm sáng tỏ tinh thần chung của các kỹ luật và nội quy, chúng được tóm lược như sau:Cố hết sức để những hành động của mình không làm phiền người khác. Không để ý đến những phiền nhiễu do người khác gây ra.
Có thể một thiền sinh không hiểu lý do thực sự của một hay vài điều lệ trên đây. Không nên để thái độ tiêu cực và nghi ngờ phát triển, mà nên gặp thiền sư lập tức để tìm hiểu rõ ràng.
Chỉ với sự cố gắng tối đa tuân hành kỷ luật thiền sinh mới có thể hiểu được cách tu tập và hưởng được lợi ích. Sự nhấn mạnh trong khóa thiền là tu tập. Lời khuyên quý báu là: hãy thực hành thiền như đang ở một mình, hướng vào nội tâm, bỏ qua mọi bất tiện và phiền nhiễu mà mình có thể gặp phải.
Cuối cùng, thiền sinh nên lưu ý là sự tiến bộ của mình tùy thuộc duy nhất vào các phẩm chất tốt của riêng mình và sự phát triển cá nhân, và năm yếu tố: những nỗ lực nhiệt thành, sự tự tin, sự chân thành, sức khỏe, và trí tuệ.
Nguyện cho những tài liệu trên đây giúp quý vị đạt được lợi ích tối đa trong khóa thiền. Chúng tôi hân hạnh có cơ hội được phục vụ, và chúc quý vị được an vui và hòa hợp nhờ kinh nghiệm tu tập Vipassana của mình.
THỜI KHOÁ BIỂU
4:00 giờ sáng Chuông báo thức buổi sáng
4:30 - 6:30 giờ sáng Thiền tại thiền đường, hay phòng riêng
6:30 - 8:00 giờ sáng Ăn sáng - nghỉ ngơi tự do
8:00 - 9:00 giờ sáng Thiền chung tại thiền đường
9:00 - 11:00 giờ sáng Thiền tại thiền đường hay phòng riêng tùy theo sự chỉ dẫn của thiền sư
11:00 - 12:00 giờ trưa Ăn trưa
12:00 - 1:00 giờ chiều Nghỉ ngơi, và phỏng vấn với thiền sư
1:00 - 2:30 giờ chiều Thiền tại thiền đường hay phòng riêng
2:30 - 3:30 giờ chiều Thiền chung tại thiền đường
3:30 - 5:00 giờ chiều Thiền tại thiền đường hay phòng riêng tùy theo sự chỉ dẫn của thiền sư
5:00 - 6:00 giờ chiều Giải lao uống trà
6:00 - 7:00 giờ tối Thiền chung tại thiền đường
7:00 - 8:15 giờ tối Pháp thoại tại thiền đường
8:15 - 9:00 giờ tối Thiền chung tại thiền đường
9:00 - 9:30 giờ tối Vấn đáp tại thiền đường
10:00 giờ tối Về phòng ngủ – tắt đèn
Vipassana cho người Việt:
- Email: vipassana.viet@gmail.com
- Hoặc viếng trang web
www.dhamma.org
http://sites.google.com/site/vnvipassana (lịch các khóa thiền Vipassana cho người Việt)
https://www.slideshare.net/roberttamnguyen/bi-ging-tm-lc-10-ngy-thin-vipassana
PHÁP THIỀN SN GOENKA - KINH NGHIỆM THIỀN QUÁN 10 NGÀY
Trước đây tôi đã từng đi nhiều chùa, đọc kinh cũng nhiều, thử qua nhiều môn thiền khác nhau nhưng khi tôi thiền xong 10 ngày với pháp môn được giảng dạy bởi Ngài SN Goenka theo truyền thống của ngài U Ba Khin thì tôi quyết định theo pháp môn này cho đến hết cuộc đơi của mình.
Nhiều người thuộc lòng kinh điển, biết rõ những tầng thiền là gì, thông suốt những lời Phật dạy nhưng nếu họ không thực hành thì vẫn còn thiếu sót.
Pháp môn thiền Vipassana được giảng dạy bởi ngài Goenka cho phép chúng ta hiểu rõ những căn bản của pháp hành này đồng thời chứng ngộ từng bước, những gì mà Đức Phật đã giảng dạy trong suốt 45 năm: Bát chánh Đạo, thập nhị nhân duyên, 37 phẩm trợ đạo….
Pháp thiền của Thiền sư Goenka (tôi tạm dùng từ ngữ này thay cho pháp thiền Vipassana) hiện nay được giảng dạy hoàn toàn miễn phí trên toàn thế giới và đã có mặt tại Vietnam từ năm 2007.
Những thiền sinh cũ đã từng dự một hay nhiều khóa thiền 10 ngày đều gặt hái được nhiều lợi lạc.
Tuy khóa thiền hoàn toàn miễn phí và dành cho tất cả mọi người nhưng những ai yếu bóng vía sẽ chùn bước trước những nội quy, điều lệ của khóa thiền 10 ngày: không nói chuỵên trong vòng chín ngày đầu tiên của khóa thiền, chỉ ăn sáng và ăn trưa, chiều thì thiền sinh mới được dụng trái cây, thiền sinh cũ chỉ dung nước chanh, thiền liên tục từ 4g sang đến 9h tối, cứ thiền 1 tiếng thì được nghĩ 5 phút.
Những gì được giảng dạy trong vòng 10 ngày có thể được tóm tắt bằng 3 chữ:
Giới- Định- Tuệ
Do những điều lệ khắt khe của khóa thiền nên thiền sinh không có cơ hội phạm năm giới, họ duy trì năm giới nghiêm mật trong suốt khóa thiền.
Ba ngày rưỡi đầu, họ thực hành thiền định bằng cách quán hơi thở và cảm giác chung quanh vùng mũi của mình, vào ngày thứ tư Vipassana chính thức được giảng dạy và vào ngày cuối cùng thiền sinh thực hành Từ bi quán để chia xẻ công đức của việc thực tập thiền với tất cả chúng sanh.
Theo kinh nhiệm riêng của cá nhân tôi thì trình độ thực chứng tùy theo Ba la mật của mỗi người. Ngài U Ba Khin tuyên bố: những ai thực lòng cầu đạo và thiền một cách nghiêm túc trong vòng 10 ngày thì đều gặt hái được những kết quả rất khả quan.
Những ngày đầu quả là một cực hình đối với thiền sinh mới, một phần vì thức ăn đạm bạc, một phần không được nói chuyện nhưng chủ yếu là những sự bực bội này được khuếch đại trên bề mặt của tâm thức do công phu thiền tập theo hơi thở.
Phương pháp quan sát hơi thở ở đây khác những pháp môn thiền khác là chúng ta chỉ quan sát hơi thở đơn thuần mà không đếm hoặc niệm Phật hoặc xen vào bất kỳ hình ảnh nào. Do đó việc tập trung trở nên khó khăn và thiền sinh cảm thấy không thoải mái khi bắt đầu thưc hành môn thiền này.
Nhiều thiền sinh quan niệm là khi tôi bỏ công 10 ngày, ngồi liên tục 10 tiếng 1 ngày, tôi sẽ được an lạc. Nếu các bạn thiền những môn thiền khác về hơi thở mà họ cho phép bạn đếm hoặc tụng niệm danh hiêu một vị Phật, hoặc tụng một câu thần chú, hoặc quán tưởng hình ảnh của một vị Bồ tát nào đó thì bạn rất dễ định tâm. Mà nếu tâm định thì hỷ lạc phát sinh và bạn cảm thấy khoan khoái và nghĩ: oh đây là định, đây là giải thoát, đây là niết bàn.
Pháp thiền của ngài Goenka tạo ra nhiều khó khăn vì mục đích của nó không phải mang lại sự an lạc tạm thời cho các thiền sinh mà là một sự an lạc thực sự sâu lắng, một sự hài hòa nội tâm thực sự và tiến đến giải thoát bằng cách thanh lọc tâm từ tầng sâu thẳm nhất của tâm.
Vì vậy khi theo dõi hơi thở mà bạn không xen vào bất kỳ thứ gì khác thì bạn sẽ có cơ hội quan sát hơi thở của mình đúng như nó là: hơi thở nặng trược, thô thiển, thở dốc, thở cấp bách , đứt hơi. Thêm vào đó thiền sinh còn bị phóng tâm, tâm suy nghĩ lung tung làm cho quá trình quan sát hơi thở liên tục bị gián đoạn, hoặc bị hôn trầm hằng tiếng đồng hồ và không thể theo dõi hơi thở của mình.
Tôi từng có kinh nghiệm phục vụ nhiều khóa thiền tại trung tâm Dhamma Mahi ở Pháp và tôi cảm thấyrất khâm phục những thiền sinh mới này. Khi thời điểm khó khăn lên đỉnh cao, họ biến chỗ ngồi thiền của họ thành những pháo đài: họ dựng thêm hai ba lớp gối, hoặc chêm thêm những tấm chăn dày. Họ không quen ngồi xếp bằng như người Á đông và họ ngồi theo cách họ có thể, nhưng phần đông quyết bám trụ và không bỏ về. Họ ý thức rất cao và chấp hành các nội quy của khóa thiền rất là nghiêm chỉnh.
Mỗi thiền sinh đều có kinh nghiệm riêng của mình và ngài Goenka luôn nhắc nhở không nên so sánh kinh nghiệm của mình với kinh nghiêm của các thiền sinh khác.
Tôi đã thiền qua nhiều khóa mười ngày, và kinh nghiệm mỗi lần mỗi khác nhau nhưng tôi cố gắng diễn tả một vài kinh nghiệm có được của mình.
Vào ngày thứ nhất tôi theo dõi hơi thở một cách bình thường. Mỗi lần phóng tâm, tôi lại trở về hơi thở của mình và không phản ứng.
Qua ngày hai tâm tôi trở nên tinh tế hơn và tôi nhận biết được sự xúc chạm của hơi thở ra , hơi thở vào trong cánh mũi.
Qua ngày ba tôi cảm thấy hơi thở ra nóng hơn hơi thở vào và nhận biết được nhiều cảm giác chung quanh vùng mũi.
Chiều ngày thứ ba và sáng ngày thứ tư, tâm tôi trở nên vi tế hơn. Những cảm giác chung quanh vùng mũi và môi trên trở nên dày đặc. Tôi có cảm giác là bờ miệng tôi bị xé toạc, nó biến dạng, vặn vẹo một cách kỳ dị...
Thông thường trong các trung tâm thiền, kỹ thuật thiền Vipassana sẽ được truyền dạy vào chiều ngày thứ tư.
Đối với vài thiền sinh định lực yếu thì ngày thứ tư đúng là ngày giải thoát vì họ không còn phải ép buộc tâm theo dõi hơi thở hàng giờ. Bây giờ họ có thể điều khiển tâm đi trên khắp bề mặt của cơ thể và tập cho tâm giữ được quân bình trước mọi cảm giác.
Và đây cũng chính là cốt lõi của pháp môn thiền Goenka: quan sát tất cả mọi cảm giác xuất hiện trên cơ thể, giữ bình tâm và không phản ứng.
Có nhiều người viết rằng Thiền của Thiền sư Goenka là chuyên về niệm thọ và không phải pháp mộn của Phật. Đây là một nhận định hời hợt không chính xác. Họ phải tự mình có can đảm dự một khóa thiền 10 ngày rồi hãy phê phán.
Nếu chúng ta lấy kinh tứ niệm xứ làm căn bản thì có niệm thân, niêm thọ, niệm tâm và niệm Pháp.
Tôi đã thiền theo phái Tào động một trường phái thiền Zen của Nhật dưới trướng của ngài Deshimaru. Phái này chuyên về niệm thân. Họ ngồi trên bồ đoàn cao, giữ người cho thật thẳng, và điều hòa hởi thở. Chỉ có vậy thôi, họ quan niệm phải ngồi thật thẳng như Đức Phật thì sẽ chứng ngộ (Satori) ngoài ra không cần làm gì thêm hết. Tồi đã ngưng thiền theo môn phái này vì nó chỉ cho một số kết quả nhất định.
Nhiều trường phái theo pháp môn quán tâm, họ liên tục quan sát những gì đang xảy ra trong tâm (cụ thể là quan sát những tư tưởng đang xảy ra và chánh niệm tất cả mọi viêc trong tứ oai nghi)
Nếu chúng ta quan sát sự phồng xẹp của bụng thì thiền định sẽ tới dễ dàng hơn vì đây là trung tâm năng lượng của con người (đan điền). Phương pháp của ngài Goenka thì tập trung quan sát ở phần môi trên vì đây là trung tâm thần kinh rất nhạy cảm của cơ thể. Việc tập trung ở môi trên giúp cho việc thiền quán dễ dàng hơn.
Thiền của ngài Goenka có những lợi thế sau đây: nếu chúng ta quan sát những cảm giác trên cơ thể thì đồng thời chúng ta cũng quán Tâm vì tất cả những gì đang xảy ra trong tâm đều đi kèm một cảm giác trên cơ thể.
Khi chúng ta quán cảm giác thì chúng ta đang sống trong hiện tại (cảm giác nóng lạnh, ngứa ngáy, khó chịu … thì bao giờ cũng có thật mà không phải do tưởng tượng).
Khi chúng ta quán những cảm giác này mà không phản ứng thì nghiệp lực được tiêu trừ dần dần.
Điều này sẽ được giảng giải cụ thể trong những bài pháp thoại mười ngày.
Khi thực hành thiền Vipassana chúng ta phải quan sát liên tục mọi cảm giác xảy ra trên cơ thể. Tất cả thiền sinh đều kinh nghiệm những cảm giác khác nhau trên cơ thể.
Tôi đã kinh nghiệm nhiều lần rằng có những cảm giác xảy ra là do điều kiện hiện tại: nhiệt đô, thức ăn, tư thế ngồi.
Nhưng có những cảm giác xảy ra rất rõ ràng là do các nghiệp lực từ quá khứ: nhiều lần tôi đang ngồi theo dõi các giảm giác trên thân mình. Các cảm giác thật vi tế giống như một luồng điện đang di chuyển trong thân từ trên xuống dưới. Đột nhiên trên lưng tôi nổi lên những cảm giác đau đớn như có một vật thể nặng trược như đá được sinh ra ở đó. Tùy theo nghiệp nặng hay nhẹ các cảm giác này có thể kéo dài 5, 10 phút. Nhiều khi 2, 3 tiếng hoặc kéo dài vài ngày.
Sau đó những nghiệp lực này tan biến đi và tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm.
Tôi biết có nhiều thiền sinh có nghiệp lực rất nặng và cảm giác đau đớn khó chịu này có thể kéo dài năm mười năm…
Tôi cũng đã từng kinh nghiệm qua các cơn giận. Nhiều khi cơn giận nổi lên là do sự không bằng lòng về thức ăn, hoặc cách đồi đãi của các người phục vụ, hoặc bạn đang nghĩ về những người làm cho bạn buồn phiền. Trên bề mặt cơn giận có vẻ như xuất phát từ một nguyên do nào đó nhưng thật sự không phải vậy. Cơn giận bùng nỗ không cần lý do mà chỉ là do nghiệp lực (sankara )từ quá khứ và trồi lên trên bề mặt của tâm thức. Tôi đã quan sát liên tục tâm mình và kinh nghiệm được điều này.
Thập nhị nhân duyên:
Đây cũng là một chân lý mà đức Phật đã khám phá ra khi trải qua quá trình thiền quán của Ngài. Tất cả những gì mà Đức Phật tuyên bố đều từ kinh nghiệm thực chứng bản thân và không hề do lý thuyết.Chúng ta theo phương pháp thiền của ngài Goenka thì kinh nghiệm thực chúng sẽ rất rõ ràng. Tôi sẽ cố gắng giải thích chân lý bằng những danh từ dễ hiểu và căn cứ trên kinh nghiêm thiền quán củ mình.Khi chúng ta nhập thất, chúng ta im lặng, ăn một ngày một buổi và chúng ta thiền liên tục từ bốn giờ sáng đến khoảng mười giờ tối. Chúng ta thiền một giờ, nghỉ 5phút xong lại thiền tiếp. Trong những tu viện như vậy, quí vị hành thiền và giữ giới một cách tự nhiên. Thông thường ba ngày đầu dành do thiền định, bảy ngày sau dành cho thiền quán.
Kinh nghiệm thiền cho thấy rằng những người thiền sinh tập sự, họ phải cần ít nhất ba ngày để định tâm. Khi tâm của các thiền sinh tạm thuần thục và trở nên sắc bén, nó sẽ nhận biết được những thay đổi mau lẹ suốt quá trình diễn tiến của dòng tư tưởng, sự sinh ra và diệt đi của những dòng tư tưởng này. Quan trọng hơn nữa, là chúng ta nhận biết được sự thay đổi, sự sinh ra và diệt đi của những cảm giác vi tế nhất trên thân của chúng ta. Và đó là sự chứng ngộ về vô thường của đức Phật: Ngài khám phá ra rằng cơ thể và đầu óc của chúng ta luôn luôn phản ứng do những cảm giác (vedana) trên cơ thể gây nên mà không phải do đồ vật bên ngoài.
Đức Phật đã từng tu khổ hạnh vì quan điểm thời bấy giờ cho rằng, nếu chúng ta ép xác, tâm của chúng ta sẽ được thanh tịnh vì khi tâm của chúng ta tiếp xúc với sáu trần bằng mắt mũi, tai, lưỡi, xúc và tâm, chúng ta sẽ tạo nghiệp vì tham sân si khởi động.
Sau đó đức Phật đã từ bỏ lối tu hành này vì ngài kinh nghiệm rằng pháp thiền này còn thiếu sót nên không thể đem đến giải thoát.
Vậy cái gì còn thiếu sót?
Đó chính là cảm giác trên thân thể của chúng ta. Khi lục căn của ta tiếp xúc với lục trần, cảm giác được sinh ra trên thân thể của chúng ta và nếu cảm giác này dể chịu, chúng ta phản ứng bằng cách níu kéo, nếu cảm giác này là khó chịu, chúng ta sẻ sinh ra sân hận và tìm cách chối bỏ chúng.
Vậy chúng ta phản ứng không phải trực tiếp do tiếp xúc với đồ vật bên ngoài mà do cảm giác sinh ra trên cơ thể. Ngay cả khi ngủ, chúng ta cũng không ngừng phản ứng.
Vậy chúng ta phản ứng không phải trực tiếp do tiếp xúc với đồ vật bên ngoài mà do cảm giác sinh ra trên cơ thể. Ngay cả khi ngủ, chúng ta cũng không ngừng phản ứng.
Ví dụ chúng ta đang ngủ, mà có một con muỗi đốt chúng ta, chúng ta sẽ đập nó một cái bốp. Đó là phần vô thức nằm sâu trong tâm của chúng ta đã phản ứng. Và nó phản ứng từng giờ, từng phút, từng dây liên tục 24 trên 24.
Hễ lạc thọ sinh ra, là Vô Thức phản ứng bằng cách níu kéo và nắm giữ, nếu khổ thọ sinh ra, Vô Thức sẽ phản ứngbằng cách chối bỏ chúng.
Sự níu kéo và nắm giữ sinh ra tham, sự chối bỏ sinh ra sân hận và chúng ta bắt đầu tạo nghiệp (sankara -hoạt động có chủ ý của tâm). Chúng ta tạo nghiệp từng giây, từng phút bởi vì phần vô thức của chúng ta không ngừng phản ứng bằng tham hoặc sân mỗi khi lạc thọ hoặc khổ thọ xuất hiện. Khi chúng ta thiền theo phương pháp của ngài Goenka ta sẽ thấy rằng lạc thọ hoặc khổ thọ có mặt trên khắp thân thể của chúng ta. Tại sao những cảm giác này được sinh ra? Tại vì có sự tiếp xúc của mắt và sự thấy, mũi với mùi vị, lưỡi với sự ăn uống, thân thể với ngoại vật và tâm với tiến trình suy nghĩ. Khi có sự tiếp xúc, cảm giác sẽ được sinh ra, lạc thọ, khổ thọ hay trung thọ (thọ trung tính).
Tại sao lại có sự tiếp xúc này? Tại vì có lục trần và lục căn. Lục căn do đâu mà có? Từ lúc chúng ta sinh ra thì lục căn xuất hiện. Tại sao lục căn xuất hiện? Lục căn xuất hiện vì có sự sống. Tại sạo lại có sự sống? Sự sống do đâu mà có? Tại vì sự sống được tạo nên do tâm và vật chất. Tại sao tâm và vật chất (esprit et matiere) hiện hữu? Vì có sự biết (conscience). Sự biết do đâu mà có? Tại vì phản ứng, mỗi lần phản ứng là giúp cho sự biết này xuất hiện. Tại sao chúng ta lại phản ứng? Là vì chúng ta không biết (vô minh), do chúng ta không biết rằng mỗi lần phản ứng là nghiệp được sinh ra nên chúng ta tạo nghiệp liên tục, nghiêp lực này lại tiếp tục sinh ra một đời sống mới.
Do có sự sống mà khổ đau có mặt. Vậy khổ đau bắt nguồn từ vô minh.
Muốn chấm dứt khổ đau, phải xóa tan vô minh, nhưng làm sao để xóa tan vô minh và bẻ gãy gông cùm do thập nhị nhân duyên xiềng xích ta vào thế giới này, làm sao xóa tan vô minh, bẽ gãy gông cùm để được giải thoát khi mà sự sống đã bắt đầu?
Tự tử là điều không thể được. Lúc chúng ta tự tử, tâm chúng ta đầy chán nãn và sợ hãi và sự đau khổ càng to lớn hơn. Chúng ta sẽ bị rơi vào một đời sống mới tràn đầy đau khổ nên tự tử không phải là cách giải quyết vấn đề giúp ta thoát khổ.
Chúng ta cũng không thể tiêu hủy lục căn vì làm như vậy không khác gì chúng ta tự tử, chúng ta cũng không thể tiêu hủy lục trần vì làm như vậy la chúng ta phải tiêu hủy toàn thế giới bên ngoài mà chúng ta đang sống.
Chỉ còn một cách duy nhất để bẽ gãy gông cùm do thập nhị nhân duyên gây ra là chúng ta đừng phản ứng mỗi khi cảm giác xuất hiện trên thân thể của chúng ta. Trước đó, mỗi khi lạc thọ xuất hiện, chúng ta chạy theo chúng, muốn nắm giữ chúng và khi khổ thọ xuất hiện, chúng ta lại sinh tâm chán ghét và muốn từ bỏ chúng.
Sự níu kéo và nắm giữ sinh ra tham, sự chối bỏ sinh ra sân hận và chúng ta bắt đầu tạo nghiệp (sankara -hoạt động có chủ ý của tâm). Chúng ta tạo nghiệp từng giây, từng phút bởi vì phần vô thức của chúng ta không ngừng phản ứng bằng tham hoặc sân mỗi khi lạc thọ hoặc khổ thọ xuất hiện. Khi chúng ta thiền theo phương pháp của ngài Goenka ta sẽ thấy rằng lạc thọ hoặc khổ thọ có mặt trên khắp thân thể của chúng ta. Tại sao những cảm giác này được sinh ra? Tại vì có sự tiếp xúc của mắt và sự thấy, mũi với mùi vị, lưỡi với sự ăn uống, thân thể với ngoại vật và tâm với tiến trình suy nghĩ. Khi có sự tiếp xúc, cảm giác sẽ được sinh ra, lạc thọ, khổ thọ hay trung thọ (thọ trung tính).
Tại sao lại có sự tiếp xúc này? Tại vì có lục trần và lục căn. Lục căn do đâu mà có? Từ lúc chúng ta sinh ra thì lục căn xuất hiện. Tại sao lục căn xuất hiện? Lục căn xuất hiện vì có sự sống. Tại sạo lại có sự sống? Sự sống do đâu mà có? Tại vì sự sống được tạo nên do tâm và vật chất. Tại sao tâm và vật chất (esprit et matiere) hiện hữu? Vì có sự biết (conscience). Sự biết do đâu mà có? Tại vì phản ứng, mỗi lần phản ứng là giúp cho sự biết này xuất hiện. Tại sao chúng ta lại phản ứng? Là vì chúng ta không biết (vô minh), do chúng ta không biết rằng mỗi lần phản ứng là nghiệp được sinh ra nên chúng ta tạo nghiệp liên tục, nghiêp lực này lại tiếp tục sinh ra một đời sống mới.
Do có sự sống mà khổ đau có mặt. Vậy khổ đau bắt nguồn từ vô minh.
Muốn chấm dứt khổ đau, phải xóa tan vô minh, nhưng làm sao để xóa tan vô minh và bẻ gãy gông cùm do thập nhị nhân duyên xiềng xích ta vào thế giới này, làm sao xóa tan vô minh, bẽ gãy gông cùm để được giải thoát khi mà sự sống đã bắt đầu?
Tự tử là điều không thể được. Lúc chúng ta tự tử, tâm chúng ta đầy chán nãn và sợ hãi và sự đau khổ càng to lớn hơn. Chúng ta sẽ bị rơi vào một đời sống mới tràn đầy đau khổ nên tự tử không phải là cách giải quyết vấn đề giúp ta thoát khổ.
Chúng ta cũng không thể tiêu hủy lục căn vì làm như vậy không khác gì chúng ta tự tử, chúng ta cũng không thể tiêu hủy lục trần vì làm như vậy la chúng ta phải tiêu hủy toàn thế giới bên ngoài mà chúng ta đang sống.
Chỉ còn một cách duy nhất để bẽ gãy gông cùm do thập nhị nhân duyên gây ra là chúng ta đừng phản ứng mỗi khi cảm giác xuất hiện trên thân thể của chúng ta. Trước đó, mỗi khi lạc thọ xuất hiện, chúng ta chạy theo chúng, muốn nắm giữ chúng và khi khổ thọ xuất hiện, chúng ta lại sinh tâm chán ghét và muốn từ bỏ chúng.
Tham lam và sân hận sinh ra khổ đau. Vậy muốn tránh khổ đau ngay từ bây giờ chúng ta phải thiền về cảm giác: mỗi khi cảm giác xuầt hiện chúng ta phải ý thức được chúng, chúng ta giữ chánh niệm và không phản ứng. Chúng ta quan sát những cảm giác này, và chúng ta thấy những cảm giác sinh ra và lại diệt đi. Sự quan sát này càng ngày càng được củng cố do công phu thiền quán.Chúng ta hiểu một cách minh bạch rằng những cảm giác này là vô thường. Không có gì để tham lam và chán ghét chúng cả. Do hiểu chúng là vô thường mà tuệ quán phát sinh nơi tâm của chúng ta. Nếu chúng ta không nắm bắt, không chiếm giữ, tâm của chúng ta sẽ được bình an và giải thoát.
- Vì không biết (Vô minh) nên chúng ta phản ứng (Hành).
Đạo lộ Giải thoát:
Mỗi một thời khắc mà chúng ta không tạo nghiệp, những nghiệp trong quá khứ sẽ trồi lên và cảm giác sẻ xuất hiện trên thân thể, chúng ta có thể kinh nghiệm được những cảm giác này khi chúng ta thiền quán. Nếu chúng ta giữ chánh niệm và không phản ứng, những cảm giác này sẽ biến mất.
Chúng ta có thể tóm tắt luật Thập nhị nhân duyên:
- Vì không biết (Vô minh) nên chúng ta phản ứng (Hành).
- Do phản ứng ý thức xuất hiện.
- Vì có ý thức, thân và tâm xuất hiện.
- Vì có thân và tâm nên lục căn xuất hiện.
- Do lục căn có mặt, nên có sự tiếp xúc với thế giới bên ngoài.
- Vì tiếp xúc nên sinh ra cảm giác.
- Do có cảm giác, nên sinh ra tham lam và sân hận.
- Tham lam và sân hận sinh ra chấp thủ (gắn bó và quyến luyến)
- Do chấp thủ nên sinh ra lòng ham sống.
- Vì muốn sống nên sự sống được hình thành.
- Vì có sự sống nên đau khổ có mặt với già , bệnh tật và chết.
Mỗi một thời khắc mà chúng ta không tạo nghiệp, những nghiệp trong quá khứ sẽ trồi lên và cảm giác sẻ xuất hiện trên thân thể, chúng ta có thể kinh nghiệm được những cảm giác này khi chúng ta thiền quán. Nếu chúng ta giữ chánh niệm và không phản ứng, những cảm giác này sẽ biến mất.
Sau đó những nghiệp khác trong quá khứ lại tiếp tục trồi lên, những cảm giác mới lại xuất hiện. Chúng ta lại tiếp tục giữ chánh niệm bằng cách không phản ứng. Cứ mỗi lần thiền quán mà chúng ta chánh niệm, tỉnh giác, giữ cho tâm ta được quân bình, không để cho lạc thọ hoặc khổ thọ chi phối, chúng ta giữ tâm định tĩnh và không phản ứng, những nghiệp chướng này sẽ từ từ được rửa sạch. Tới một lúc nào đó, tất cả nghiệp chướng đều được tiêu trừ do công phu thiền quán, chúng ta đắt quả alahán và giải thoát.
Tất cả tiến trình giải thoát này đều được dựa lên kinh nghiệm của những khóa thiền.
Tất cả tiến trình giải thoát này đều được dựa lên kinh nghiệm của những khóa thiền.
Đức Phật đã thiền, đã kinh nghiệm qua tiến trình này và đắc đạo. Khi kinh nghiệm thiền của bạn đã thâm sâu, bạn hiểu rằng quá trình giải thoát bằng cách thanh lọc tâm không dính dáng gì đến kinh điển và kiến thức trừu tượng.
Chúng ta phải thiền về cảm giác vì nhờ thiền về cảm giác mà chúng ta có thể thoát khỏi sự ràng buộc xiềng xích của thập nhị nhân duyên. Đức Phật nhấn mạnh ta phải thiền về cảm giác (vedana) vì đây là đầu dây mối nhợ cột chúng ta vào vòng luân hồi không có lối thoát.
Và khi bạn thiền theo phương pháp của ngài Goenka, bạn kinh nghiệm đây là con đường trực tiếp đưa đến giải thoát:
- Do thiền quán về cảm giác chúng ta hiểu phần Vô Thức (subsconscience) hoạt động ra sao, tham sân si nguy hiểm như thế nào nên chúng ta ngừng phản ứng với những cảm giác, mọi dây xích bị cắt đứt (vô minh - Sankara ko còn nữa, không có sankara nào được sinh ra):
Cầu mong càng ngày càng nhiều người bước trên đạo lộ giải thoát.
Trong tâm từ
NGUYỄN TỪ NAM (Tv.Hoasen)
Chúng ta phải thiền về cảm giác vì nhờ thiền về cảm giác mà chúng ta có thể thoát khỏi sự ràng buộc xiềng xích của thập nhị nhân duyên. Đức Phật nhấn mạnh ta phải thiền về cảm giác (vedana) vì đây là đầu dây mối nhợ cột chúng ta vào vòng luân hồi không có lối thoát.
Và khi bạn thiền theo phương pháp của ngài Goenka, bạn kinh nghiệm đây là con đường trực tiếp đưa đến giải thoát:
- Do thiền quán về cảm giác chúng ta hiểu phần Vô Thức (subsconscience) hoạt động ra sao, tham sân si nguy hiểm như thế nào nên chúng ta ngừng phản ứng với những cảm giác, mọi dây xích bị cắt đứt (vô minh - Sankara ko còn nữa, không có sankara nào được sinh ra):
- Sankara (hoạt động có chủ ý của tâm) diệt => Thức diệt (Dòng tâm thức ngừng lại).
- Thức diệt nên cơ cấu thân tâm diệt (không còn phần tâm thức và vật thể lưu chuyển).
- Vì cơ cấu thân tâm diệt nên 6 giác quan diệt,(không còn 6 giác quan nữa).
- Vì 6 giác quan diệt nên xúc diệt, xúc chạm không còn nữa.
- Vì xúc diệt nên cảm giác diệt, không còn cảm giác nữa.
- Vì cảm giác diệt nên thèm khát diệt, không còn thèm khát nữa.
- Thèm khát diệt nên ràng buộc diệt, không còn ràng buộc nữa.
- Vì ràng buộc diệt nên hết trở thành, không còn tiến trình trở thành.
- Vì trở thành diệt nên sanh cũng diệt, không còn sự sanh ra đời.
- Vì sanh diệt nên già chết; sầu bi; khổ; ưu; não diệt.
Tất cả khổ đau nối gót ra đi (...chấm dứt).
(Chủ blog: trích đoạn trong bài giảng ngày thứ 5 của Thiền sư S.N.GOENKA)
Trong tâm từ
NGUYỄN TỪ NAM (Tv.Hoasen)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét