- MƯỜI NGHIỆP LÀNH


Người, vật, chim muông, hoa lá, cỏ cây, lâu đài, phố thị, làng mạc... đều nương tựa trên mặt đất. Cũng vậy, chúng sanh hữu tình, các bậc trí tuệ, chư thánh nhơn, đức Phật... cũng do 10 nghiệp lành mà có sắc thân, tướng mạo, y báo, chánh báo sai khác, dị đồng... Tất cả phải nương tựa nơi 10 nghiệp lành vậy.

Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả. Mười nghiệp lành thường quyết định duyên lành, làm cho thông minh sáng láng, học hành thành đạt, sự nghiệp hanh thông, gia đình ấm êm và cả trí tuệ thông hiểu con đường xuất ly ba cõi nữa.

Người Phật tử sau khi thọ Tam qui, Ngũ giới, Bát quan trai giới thì nên tu tập thêm thập thiện nghiệp để làm hành trang, tư lương tối thắng cho mình giữa thế gian cát bụi, lắm nghiệt ngã và nhiều khổ đau này.

Và thập thiện nghiệp ấy là gì?
1. Thân vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại các loài hữu tình.
Tất thảy các loài hữu tình, từ bò, bay, máy, cựa, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân cho đến chúng sanh có cánh, không cánh, có vây, không vây... ở trên mặt đất, dưới biển, ao hồ, sông rạch, trên hư không... chúng đều có sự sống, có thức tánh, biết đau đớn - thì người Phật tử phải biết tôn trọng, chẳng nên giết hại.

Tất cả các loài, các loại, các giống chúng sanh ấy, do thấp sanh (ẩm ướt, ẩm thấp), do bàng sanh (súc sanh) hay noãn sanh (trứng), chúng đều do sự chi phối, tác động của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Khi chúng trả hết ác nghiệp, chúng có thể trở lại thân người. Trái lại, nếu không tạo trữ phước lành, cứ tà kiến, ngu si, ác độc làm việc dữ; thì chúng ta cũng phải bị đọa vào các cảnh giới đau khổ ấy. Để tránh khỏi sự khổ báo và trả vay nhân quả, chúng ta chẳng nên sát sanh hại vật; dù sinh mạng chúng nhỏ nhiệm thế nào.

Nói rộng hơn nữa, ngay chính cây cối, thảo mộc là loài vô tri, vô giác, không có thức tánh, chúng ta cũng không nên chặt phá bừa bãi; vì chúng cũng có "sự sống" vậy.

Nếu biết vĩnh viễn từ bỏ sự giết hại, người Phật tử sẽ tăng trưởng lòng từ; và những trạng thái tâm ác độc, hung dữ lần hồi sẽ lắng dịu. Tâm từ càng phát triển thì tâm sân, sát, hận, ưu sẽ không còn. Và khi ấy, người Phật tử sẽ cảm nghe một năng lực từ hòa, mát mẻ từ bên trong lan tỏa ra bên ngoài, thấm nhuần khắp cả không gian, người, vật, cây, cỏ... lúc ấy là lúc mà nghiệp lành thứ nhất đã thành tựu, đã tuyệt hảo, trọn vẹn, viên mãn vậy.

Có thơ rằng:
"- Muôn loài sự sống đều nhau
Có thân, có thức biết đau như mình
Nỡ nào giết hại hữu tình
Ruột mềm máu chảy thương sinh não nùng”.

2. Thân vĩnh viễn từ bỏ trộm cắp của cải, tài sản của người khác.
Của cải, tài sản, cái ăn, cái mặc, phương tiện, nhu cầu sinh sống của mọi người trên thế gian; một phần do phước báu tạo trữ từ nhiều kiếp nên được thọ hưởng sung mãn, dư dật trọn đời; còn đa phần là do lao tâm, lao lực, đổ mồ hôi, sôi nước mắt; chịu khó làm ăn, trăm phương nghìn kế, thức khuya dậy sớm, chăm chuyên cần mẫn, biết để dành, vun quén, tiết kiệm... mới có được.

Cũng có thứ tài sản, của cải, gia tài của một số người do làm ăn phi nghĩa, phi nhân, bất chánh. Nhưng chúng hoạnh phát thì hoạnh tàn, sẽ đi kèm theo định luật nhân quả trả vay ngay hiện tại hoặc kiếp sau. Và sự báo ứng, tất nhiên, không thể chạy trốn đâu cho khỏi được.

Như vậy, của cải, tài sản xét theo mọi lẽ, người Phật tử tự biết, nếu khởi tâm trộm cắp đã là ý nghĩ bất chánh, đã do lòng tham khởi động, xúi giục, sai bảo. Là nô lệ của vô minh, ái dục và si mê. Nếu không tỉnh thức, tự chủ, tự chế... thì lòng tham kia sẽ che mờ tâm trí, bịt mắt lương tri, rồi nó sẽ dẫn chúng ta đến chỗ tội tù, lao hình thống khổ. Các tội ác khác, đôi khi cũng từ đó mà đồng loạt dấy sanh. Những mưu mô, thủ đoạn, ác độc, lường gạt, giết người, gian dối, tham nhũng, hối lộ, san đoạt tài sản... xảy ra hằng ngày hằng giờ trên thế gian, không là bài học máu xương cho chúng ta suy gẫm hay sao? Và khi ấy, vòng trầm luân bất định của những con đường đau khổ, một lần rơi đọa, biết mấy triệu kiếp sau mới trở lại thân người? Chỉ cần một tí liên tưởng, một chút tư duy, người Phật tử sẽ vĩnh viễn không dám thò tay, nạy cửa, lấy cắp tài sản, của cải của người, của xã hội. Không những hiện vật có giá trị mà những thứ ít có giá trị hoặc không có giá trị gì mấy, người Phật tử chơn chính cũng sẽ không lấy khi vật ấy chưa được cho, chưa được sở hữu chủ bằng lòng, hoan hỷ cho.

Chỉ "không khởi tâm" trộm cắp, từ bỏ vĩnh viễn không lấy cắp đã là một nghiệp lành cao cả, sẽ đem đến an vui, an toàn cho mọi người xung quanh và xã hội rồi. Khi ấy, những hiện vật trưng bày ở những nơi công cộng như công viên, đường sá, vườn hoa, nhà mát, khu di tích lịch sử, văn hóa... ở đâu đều nguyên vẹn ở đó, được tất thảy mọi người bảo vệ và tôn trọng. Lúc ấy, nhà nhà không cần đóng cửa, không ai cần thiết phải kín cổng, cao tường, rào chông mấy lớp. Các loại ổ khóa không cần dùng. Của rơi dọc đường không ai thèm lượm, nếu nhặt được người ta sẽ tìm cách hoàn lại cho khổ chủ. Khung cảnh và không khí thanh bình tuyệt vời ấy quả là thiên đường trần gian, mà con người không thể ước mơ được hay sao?

Bèn có thơ rằng:
"- Trộm cắp, lấy cướp của người
Làm thân trâu ngựa bao đời trả xong
Lại còn đói khổ chất chồng
Thây ma, xác quỷ trôi sông, dạt bờ”.


3. Thân vĩnh viễn từ bỏ tà dâm, tà hạnh.
Sự chung thủy vợ chồng là nét đẹp văn hóa truyền thống của nền đạo đức và luân lý Đông phương.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Gia đình được hạnh phúc, an vui thì xã hội mới được hạnh phúc, an vui. Thật không thể quan niệm được khi một xã hội văn minh, tiến bộ, thịnh mãn về vật chất, áo cơm - lại có thể đem đến hạnh phúc cho mọi nhà, khi "mọi nhà" ấy: vợ chồng tự do ngoại tình, tự do lăng nhăng, tự do bỏ vợ, bỏ chồng để đi tư tình, thương yêu người khác!

Tục ngữ nói: "Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn". Thuận là hòa thuận. Hòa thuận là do thương yêu, hòa hợp, đùm bọc, chia sẻ ấm lạnh ngọt bùi, vui buồn gian khổ có nhau, không bao giờ phụ rẫy, hắt hủi, bạc tình, bạc nghĩa với nhau.

Đạo Phật là đạo xuất ly thế gian nhưng mà không đoạn tuyệt thế gian; vẫn phân biệt rõ ràng đâu là hạnh phúc thế gian đâu là hạnh phúc siêu thế. Và đối với người cư sĩ, hạnh phúc gia đình luôn được đức Phật nhắc nhở, dạy bảo. Lác đác trong kinh điển, đức Phật thường giáo giới đến hàng tại gia biết cách vun quén, xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình mình. Những bổn phận của vợ đối với chồng, của chồng đối với vợ, trong đó sự thương yêu và lòng chung thủy luôn được xem trọng hàng đầu. Như vậy, khi muốn gia đình mình được hạnh phúc, an vui thì ta không nên phá hoại hạnh phúc và an vui của gia đình người khác.

Khi vợ chồng không còn thương yêu, chung thủy; lại đem san sẻ tình yêu cho người khác; thì những gấu ó, bất hòa, lời qua tiếng lại, "ông ăn chả, bà ăn nem" đưa đến phân ly, tan nát là một viễn cảnh vô cùng đen tối. Con cái, từ đó sẽ không có nơi nương tựa khi vợ chồng ly thân hoặc ly dị. Chúng sẽ sinh ra hư hỏng, cướp của, giết người, xì-ke, ma tuý, hình lao, tù tội... thật không mấy xa! Thiếu vòng tay mái ấm gia đình, chúng sẽ mất niềm tin với đời, trái tim sẽ băng lạnh, nhân tính biến đổi...

Có thơ rằng:
"- Thương nhau sao nỡ phụ nhau
Bạc tình, bạc nghĩa ôm bầu trăng hoa
Thói quen ác hạnh, dâm tà
Nát tan mái ấm, chết sa khổ đồ”.

4. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói dối.
Thế gian ai cũng ưa ăn ngay nói thật. Lời nói chơn chánh, chân thực, biểu hiện đức độ, sức mạnh nội tâm, đem đến sự tin tưởng, tin cậy, tín cẩn ngọt ngào và dễ mến giữa cuộc đời này.

Những kẻ có nói không, không nói có, bóp méo sự thật, xuyên tạc lẽ phải thường đem đến nhiều nguy hại, khổ đau và bóng tối cho trần gian biết là ngần nào?

- Có lời nói dối đưa đến chém giết, hận thù.
- Có lời nói dối làm cho người ta tán gia, bại sản.
- Có lời nói dối phá vỡ bình yên, hạnh phúc của người khác.
- Có lời nói dối đưa kẻ khác đến tội tù, gia đình người ta phân ly, tan nát.
- Có lời nói dối chận đứng sự tiến thân, danh vọng hoặc sự nghiệp của người khác.
- Có lời nói dối làm cho người ta tức uất thổ huyết mà chết.
- Có lời nói dối đưa đến ganh ghét, đố kỵ, tỵ hiềm.
- Có lời nói dối làm cho người thân, huynh đệ, bạn bè suốt đời không nhìn mặt nhau...

Là người Phật tử, chỉ có việc "từ bỏ vĩnh viễn lời nói dối" đã là tốt đẹp và cao cả lắm rồi. Trên phương diện tương quan nhân quả, nghiệp lành này mang đến cho cuộc đời sự bình yên; hoặc ít ra là tạo được không khí trong lành, không bị ô nhiễm bởi những tác hại do những lời nói dối gây ra.

Ôi! cuộc đời này sẽ dịu dàng và tinh khiết dường bao khi xung quanh ta đều là những người không biết nói dối, không bao giờ nói dối! Chư Bồ-tát, các bậc Thánh nhân dù họ có lìa bỏ sanh mạng, bị hành thân hoại thể, bị sỉ nhục đắng cay; chắc chắn không vì vậy mà nói dối hại người! Vậy, không nói dối là phẩm chất cao thượng, là đức tính quí báu mà ai cũng có sẵn trong chính mình; cần được bảo vệ, phát huy và trưởng dưỡng cho đến độ viên mãn.

Bèn có thơ rằng:
"- Lời nói chẳng mất tiền mua
Tự tâm có sẵn, vốn xưa đầy bồ
Lìa xa dối vạy quanh co
Ngữ ngôn chân thật, thước đo đạo tràng”.

5. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói vu oan, vu cáo.
Lời nói dối đã độc hại, nguy hiểm mà lời nói vu oan, vu cáo kẻ khác còn thâm hiểm, độc ác hơn nhiều.

Lời nói dối, ban đầu, có thể do tham sân điều động nhưng chỉ ở mức độ vừa phải. Lên đến cấp độ vu oan, vu cáo thì tham sân ấy đã cương mãnh hơn nhiều. Đã trở nên mù quáng lý trí, đã đánh mất nhân tính, đã rời xa đạo đức, luân lý và lẽ phải ở đời. Tham sân ở đây đã trở nên tham độc và sân độc, đã biến con người đầy đủ nhân tính, thiện lương thành các loài rắn rít, bò cạp hoặc độc trùng ghê tởm khác.

Là người Phật tử chơn chánh, không những phải giữ trọn nghiệp lành không nói dối mà còn biết từ bỏ vĩnh viễn lời nói vu oan, vu cáo, giá họa, đẩy người khác đến chỗ không tội mà thành tội, không làm mà thành làm, xô người khác vào vực thẳm tội tù hoặc suốt đời bị đọa đày, oan khuất, tối tăm, thống khổ.

Cho nên có thơ rằng:
"- Vu oan, vu cáo hại người
Một lời giá họa nặng mười ác tâm
Độc trùng, dã thú chớ gần
Miệng lời rắn rít, lụy thân nhiều đời”.


6. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc, ác ngữ...

Tuy những lời nói thuộc loại này không ác độc bằng hai cách nói trên nhưng cũng chẳng hay ho, tốt đẹp gì, đều đem đến nguy hại cả.

Lời cộc cằn, thô lỗ, chửi rủa, mắng nhiếc... biểu hiện một trạng thái tâm chưa được huấn luyện. Ấy là cái tâm đang còn hoang dã, bản năng, thô xấu, thiếu văn hoá, thiếu giáo dục, thiếu gia phong, lễ giáo nề nếp con nhà! Những lời nói như thế ấy làm đau lòng người khác, thường đưa đến sự xô xát, đánh đập tay chân hoặc đùi gậy, dao búa đến sứt đầu, bể trán mà thôi.

Người có học thức, hiểu biết, nội tâm đã được huấn luyện, có tu tập; thường dễ dàng tránh xa những lời nói kiểu này. Là Phật tử chơn chánh, ngôn ngữ nói ra phải dịu dàng, từ ái, khiêm tốn dễ nghe. Người ta thường ví miệng thơm như hoa lan để nói đến người có lời nói chân thật, ái từ là vậy.

Có thơ rằng:
"- Cộc cằn, thô lỗ ai ưa?
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau
Tâm hoa thơm ngát, thơm lâu
Từ hoà, ái ngữ một câu miệng vàng”.

7. Khẩu vĩnh viễn từ bỏ lời nói nhảm nhí, vô ích, rỗng không, phù phiếm...

Những cách nói như thế ấy quả là làm mất thì giờ vô ích. Chỉ có kẻ ngồi lê đôi mách, ăn rỗi ở thì, nội tâm trống rỗng, không có việc làm, không đọc kinh sách, nhàn cư, thiểu học... mới rơi vào trường hợp này.

Người xưa nói: Một ngày không đọc sách, một ngày hôi miệng! Thế còn những kẻ rỗng không, vô tích sự, giết thì giờ trong những câu chuyện tục tĩu, nhảm nhí thì nội tâm và trí óc họ chứa đựng những gì?!

Vậy, người Phật tử chơn chánh có Tam qui, Ngũ giới, có tu tập và biết phát triển những nghiệp lành, đừng nên coi những cách nói rỗng không, nhảm nhí... là chuyện nhỏ mọn! Một hạt bụi tí ti rơi vào mắt cũng làm cho mắt phải bị nhức nhối, xốn xang. Một chút dơ uế lấm lem vào tâm, khinh thường lâu ngày thì cái tâm kia cũng trở nên đen đúa và xấu xa! Những giọt nước rỉ từng giọt lâu ngày cũng đầy tràn sông hồ, ao biển... đúng như câu kinh Pháp cú số 121:
"- Nước rơi từng giọt giọt thôi
Lâu ngày chầy tháng đến hồi tràn lu
Chút chút việc ác, mặc dù
Ngày qua tháng lại, người ngu ác đầy!"

Những lời nói rỗng không, nhảm nhí, tục tĩu, vô ích... lâu ngày thành thói quen, tích lũy thành nghiệp ác. Những lời nói bỡn cợt, ba lơn, ba láp, ba xàm; ban đầu tưởng là vô hại, nhưng lâu dần chúng trở thành cá tính khó rời; khiến ta thành kẻ không đứng đắn, thiếu tư cách, mất phẩm chất thật là uổng phí vậy. Khi mà đã trở thành như thế thì kẻ ấy dù có chân đứng, địa vị, danh vọng và sự nghiệp gì trên cuộc đời cũng sẽ bị người coi khinh, khi rẻ, nhạo báng, xem thường!

Cho nên có thơ rằng:
"- Rỗng không, tục tĩu, vô duyên
Miệng lời nhảm nhí, trí hiền chẳng ưa
Chẳng nên thêu dệt thiếu thừa
Đẹp ngôn, đẹp khuẩu lại vừa thơm hương”.

8. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự tham lam
Có những mong muốn, ước muốn bình thường trong đời sống mà chẳng phải tham lam. Ví dụ đói muốn ăn, khát muốn uống. Hoặc, ta mong muốn làm một điều gì, muốn thực hiện một việc gì... Tất cả những mong muốn ấy, theo Abhidhamma, nó là "chanda", là dục tâm sở; chỉ mới là ước muốn thuần túy chưa quyết định thiện ác. Còn tham lam là do tâm sở "lobha" hay "abhijjā", có trạng thái dính mắc, có sự tham dự của tư tâm sở (cetanā) mới tạo thành nghiệp. Do vậy, khi tâm tham khởi thì những tâm sở bất thiện đồng khởi theo để tạo tác tất cả những việc xấu ác trên trần đời!

Lòng tham ấy sẽ được hiện khởi từ các tâm trạng sau đây:
- Không bằng lòng, không vừa ý, không thỏa mãn những sở hữu mà mình đang có.
- Không bao giờ biết sống đời tri túc, mà luôn cảm thấy thiếu thốn, muốn có thêm vật này, vật kia... tương tự như tục ngữ: "đứng núi này trông núi nọ, được voi đòi tiên".
- Luôn luôn dòm ngó của cải, tài sản của kẻ khác.
- Luôn muốn vơ vét, chiếm đoạt, cướp giật của cải tài sản của người.

Nói rộng hơn, nhưng cũng cô đọng hơn là lòng tham được thỏa mãn lục trần: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái cùng những tham vọng về tinh thần. Đấy là những tham vọng về quyền lực, danh vọng, sự nghiệp, bá chủ, thần thông, phép lạ...

Lòng tham ấy đã tung rải biết bao nhiêu bóng tối, đau khổ và tang thương cho nhân loại từ xưa đến nay! Thế giới lục trần tươi đẹp và hào nhoáng ấy là đóa hồng diễm kiều hương sắc nhưng lại đầy gai máu! Nó là vực thẳm chông nhọn được trải bằng tấm thảm nhung êm. Nó là mồ chôn biết bao sa-môn, đạo sĩ, đế vương, công hầu, khanh tướng, tỷ phú, triệu phú, anh hùng, quân tử, mỹ nhân, vĩ nhân, danh nhân, thi sĩ, văn sĩ, nghệ sĩ và cả những khoa học gia danh tiếng lẫy lừng... Lòng tham ma vương không chừa một ai trên trần thế! Tham ít khổ ít, tham nhiều khổ nhiều, đấy là định luật tất yếu! Là sức dội lại của quả bóng tuỳ thuộc lực ném vào tường! Là sự bỏng cháy nhiều ít do các ngón tay hay bàn tay vọc lửa!

Vậy, người Phật tử chơn chánh muốn chấm dứt các khổ đau, phiền não thì phải biết nghe lời từ bi và trí tuệ của đức Đại Giác; phải biết vĩnh viễn từ bỏ lòng tham này vì lợi ích cho mình và cho người. Đây là nghiệp lành vừa có phước báu nhân thiên vừa gieo duyên với cứu cánh giải thoát tối hậu.

Có thơ rằng:
"- Lửa nào hơn được lửa tham
Đốt trái tim, cháy lầm than kiếp người
Lá hoa, cây cỏ thắm tươi
Vô tham hạt giống, đâm chồi tự do!"

9. Ý vĩnh viễn từ bỏ sự sân hận (thù oán, oán hận, ác ý)Tâm sân do chữ dosa. Theo Abhidhamma, tâm sân không bao giờ khởi một mình, tuỳ theo cường độ, tính chất của nó mà các tâm sở tương ứng cùng khởi theo. Ví dụ: tật, xan, hối...

Theo cách hiểu thông thường, sân mà còn hận nữa thì cường độ sân ấy đã tăng thêm một bậc, có thể thiêu huỷ, đốt cháy các đối tượng. Lửa sân hận rất khủng khiếp, nó có thể tạo nên các tội ác trên cuộc đời, nó có thể đốt cháy tất thảy mọi ruộng vườn công đức, phước báu.

Người có trí, có căn bản giáo pháp, có tu tuệ quán, có thể biết được sự hiện khởi của tâm sân ấy qua mấy dạng sau đây:
- Sân bình thường, tức là sân do phản ứng tự nhiên của tâm sinh lý; chưa có hại, chưa tạo nghiệp.
Ví dụ: Thấy khó chịu khi nghe một âm thanh quá lớn. Trời nóng thì cảm thấy bực bội. Thấy điều ác, không ưa...
- Những điều trái ý, nghịch lòng nếu cứ gặp mãi thì trạng thái sân này sẽ gia tăng, cứ âm ỉ thiêu đốt ở trong lòng. Như vậy là từ sân bình thường (dosa), sân ấy đã chuyển sang ưu (domanassa).
- Nếu ưu càng gia tăng, mới nghĩ đến đối tượng đã không còn chịu nổi, muốn đập phá, muốn tiêu diệt đối tượng. Trạng thái tâm lý này đã chuyển thành hận (pāṭigha).

Tuy nhiên, ưu và hận sẽ không khởi một mình mà nó còn đi theo những tâm sở khác: tật, xan, hối... để tạo thành nghiệp. Do vậy, sân hận sẽ gia tăng cường độ rất nguy hiểm, càng lúc càng không thể kềm chế nổi. Nó có thể hủy diệt nhân loại, thiêu cháy một làng, một xóm. Nó có thể tạo ngũ nghịch đại tội. Nó có thể đưa chúng sanh vào hằng trăm loại địa ngục đồng sôi, lửa đốt, dao đâm, vạc dầu... thật vô vàn thống khổ.

Biết sự nguy hại của sân hận, người Phật tử chơn chánh nguyện phát triển nghiệp lành này, bằng cách tỉnh niệm thường xuyên để thấy rõ sự dấy khởi của nó và vĩnh viễn từ bỏ, loại trừ ưu và hận ra khỏi tâm.

Theo Abhidhamma, vô sân đồng nghĩa với tâm từ vô lượng, nên sự an lành và mát mẻ của nó đúng là môi trường sinh thái tốt lành cho người, vật, chim muông, cây cỏ.

Bèn có thơ rằng:
"- Không sân, mát mẻ xiết bao
Cây lành trái ngọt, ngát ngào hương hoa
Suối trong giữa cõi ta-bà
Tình xanh nhân ái, hoan ca thái bình”.

10. Ý vĩnh viễn từ bỏ tà kiến (chuyển tà kiến thành chánh kiến)
Tà kiến là thấy sai, thấy lệch, thấy nghiêng, thấy một bên, thấy một phía, không thấy được cái chơn, cái thực, cái toàn diện. Tuy nhiên, mới thấy tà như vậy cũng chưa phải tà kiến. Người thấy tất cả cái tà ấy, còn chấp cái tà ấy là chánh, là sự thật; rồi còn ra sức bảo vệ, phát triển quan điểm lệch lạc ấy nữa, mới chính thật là tà kiến.

Những người học Phật thường gọi danh những người chấp đoạn là đoạn kiến, chấp thường là thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến chính là tà kiến vậy.

Đoạn kiến là quan niệm cho rằng chết là hết, không còn gì. Không có kiếp này, kiếp kia, không có thiện ác, không có thiên đường, địa ngục, không có nhân quả báo ứng. Và, đạo đức, luân lý trên thế gian chỉ là trò u mê, ngốc nghếch! Vậy hãy hưởng thụ thân xác, làm cho "cái ta" hiện giờ đây được sung sướng, cực lạc. Hưởng thụ dục lạc ngũ trần chính là Niết-bàn vậy. Các nhà đoạn kiến có quan niệm như vậy rồi dạy môn đệ, viết sách để quảng bá tư tưởng ấy. Chủ nghĩa duy vật chất, chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa hiện sinh rơi vào đoạn kiến này.

Thường kiến có quan điểm cho rằng có một linh hồn, một tự ngã thường hằng bất biến, không thay đổi, đầu thai từ kiếp này sang kiếp kia. Do vậy, kiếp này làm vua thì kiếp sau cũng làm vua. Thương gia, tướng cướp, cùng đinh hoặc đui, què, mẻ sứt... kiếp này thì kiếp sau cũng y như thế. Làm thiện chẳng có tích sự gì, làm việc ác mà được sung sướng thì cứ làm. Nhân, nghĩa, đạo đức, luân lý là con ngáo ộp dọa người đó thôi. Chúng ta do Thượng đế đã cho giàu sang thì sẽ giàu sang mãi mãi...

Như vậy, đoạn kiến và thường kiến đã đầu độc thế gian, làm cho thế gian đổ nát, hoang vu, điêu tàn, băng hoại. Nó thiêu huỷ, đốt cháy đạo đức, nhân luân, nhân tính cùng các giá trị tinh thần thiêng liêng, cao cả khác. Ngoài ra, rải rác trong kinh điển, còn có những cái gọi là biên kiến, kiến kiết phược, kiến hoang vu, kiến sa mạc, kiến điên đảo, kiến rừng rậm... đều là bà con họ hàng với tà kiến cả vậy.

Người Phật tử phải biết chuyển cái thấy sai thành cái thấy đúng, cái thấy nghiêng lệch bằng cái thấy chính chơn, nghĩa là phải biết chuyển tà kiến thành chánh kiến.

Thế chánh kiến là gì?
Chánh kiến là gọi tắt của chánh tri kiến (thấy biết chơn chánh). Chánh tri kiến là gọi tắt của chánh kiến, chánh văn, chánh giác, chánh tri.

Và "kiến, văn, giác, tri" là thế nào?
- Mắt thấy sắc như thực, nghĩa là sắc như thế nào phải thấy sắc như thế ấy. Thấy một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý kiến, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh kiến.

- Tai nghe âm thanh như thực, nghĩa là âm thanh như thế nào phải nghe âm thanh đúng như thế. Nghe một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh văn.

- Mũi ngửi hương như thực, nghĩa là hương như thế nào phải biết hương như thế ấy, một cách khách quan, trung thực, không xen lẫn tư tưởng, ý niệm, tình cảm của mình vào: ấy được gọi là chánh giác.

- Lưỡi nếm vị như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.

- Thân xúc chạm như thực. Tương tự như trên, được gọi là chánh giác.

- Ý biết pháp như thực. Nghĩa là pháp nào thì phải biết cho đúng như thực với pháp ấy; đừng suy diễn ra, đừng tưởng tượng thêm, đừng dịch giảng lung tung! Ngoài ra, những thu góp tin tức từ các tiền trạm thông tin mắt, tai, mũi, lưỡi, thân như thế nào; khi vào đến ý phải phản ánh cho trung thực, không bị méo mó, lệch lạc... thì được gọi là chánh tri, tức biết như chơn như chánh vậy.

Kiến, văn, giác, tri là gọi tắt của sự thấy, biết, cảm giác, tri giác của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đối với đối tượng lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Kiến, văn, giác, tri như thực được gọi là chánh kiến.

Từ chánh kiến với nghĩa rốt ráo, tinh tủy, căn bản này, người Phật tử sẽ có được đức tin chơn chánh, không bị rơi vào các loại tà kiến phức nhiễu, hỗn loạn đang vấy độc giữa cuộc đời; không bao giờ còn bị ru ngủ, bị mê lẩn bởi các tôn giáo thần linh huyễn hoặc; những triết thuyết, học thuyết cao đại, khoa trương nhưng thiển cận, rối rắm, tơ vò; những mê tín nhân gian bậy bạ, mù quáng nữa.

Chánh kiến thuộc tuệ phần, quan trọng nhất trong con đường Thánh đạo có 8 nhánh. Vậy chuyển tà kiến thành chánh kiến đúng là nghiệp lành tối thượng, cao cả nhất để đến nơi giải thoát, an vui, chân hạnh phúc.

Bèn có thơ rằng:
"- Lưới mê trói buộc đã nhiều
Ngu si, tà kiến trăm điều đắng cay
Hành trang chơn chánh cầm tay
Tâm trong, trí sáng, non tây ta về”.

Kết luận,
Mười nghiệp lành như vậy là thân có 3, khẩu có 4 và ý có 3. Nếu thân khẩu ý được điều tiết, thu thúc, gìn giữ, bảo trọng, phát huy và tăng trưởng 10 nghiệp lành này, được gọi là thân khẩu ý trọn lành hay tam nghiệp trọn lành.

Lúc 10 nghiệp trọn lành là người Phật tử vĩnh viễn đóng cửa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, có thể mở cửa nhân thiên và thênh thang bước vào đại lộ huy hoàng của an vui và hạnh phúc. Đời kiếp nào cũng không còn rơi đọa vào các cảnh giới đau khổ, miền biên địa, chốn man di mọi rợ hoặc các giống dòng, gia tộc ngoại đạo, tà kiến. Trong các cõi trời và người, đi đâu họ cũng gặp Phật pháp, thiện trí thức bằng hữu hoặc những duyên lành, phước lành thù thắng và tối thượng.

Sau khi cuộc lang thang đã mãn, tín, giới, văn, thí, tuệ đã đầy, ba-la-mật đã đủ; nếu muốn, họ dễ dàng chứng quả Tứ Thánh và đắc Niết-bàn để thọ hưởng hạnh phúc siêu thế.

Tất cả chúng sanh trong 3 cõi, 6 đường đều phải biết nương nhờ 10 nghiệp lành này như một kim chỉ nam vô giá quyết định phương hướng cho hạnh phúc các kiếp sống. Thanh Văn Phật, Độc Giác Phật cũng nương nhờ 10 nghiệp lành này mà đầy đủ tâm, đầy đủ tuệ để tận lìa phiền não. Đức Đại Bồ Tát của chúng ta cũng từ 10 nghiệp lành này mà thành tựu 8 minh và 15 hạnh, đắc quả Chánh Đẳng Giác vậy.

Bèn có thơ rằng:
"- Trọn lành mười nghiệp ra đi
Ngán gì gió chướng, sá chi bụi hồng
Trời, người các cõi thong dong
Phúc đầy, duyên đủ vượt dòng tử sinh!”

Kính,
MĐTT
MƯỜI CÁCH TẠO PHƯỚC
Mahinda Wijesinghe - Hằng Liên dịch


Làm thế nào để tạo phước? Có 10 cách sau đây để tạo phước cho mình:

. Bố thí
. Giữ giới
. Thực hành thiền
. Tôn trọng người
. Phát tâm giúp người
. Hồi hướng phước lành
. Hoan hỷ với phước lành của người khác
. Giảng giải giáo pháp
. Nghe pháp
. Chuyển tà kiến thành chánh kiến

Bố thí

Đây là cách tạo phước lành căn bản nhất. Bố thí vật chất là những việc làm như cho cơm người đói, cho thuốc người đau… Bố thí được Đức Phật tán thán vì đây là đức hạnh nền tảng. Chính bố thí giúp người thực hành pháp này giảm đi tâm tham ái, tên thủ phạm xây dựng ngôi nhà khổ đau. Ngài đã gọi tham ai là tâm nhiễm ô.

Những ai thiếu đi các nhu cầu thiết yếu của cuôc sống và người nào đáp ứng được sự thiếu hụt này, gọi là bố thí tài vật. Người cư sĩ tại gia thường cúng dường (cách nói trang trọng và tôn kính khi bố thí cho người xuất gia) bốn loại vật dụng thiết yếu đến người xuất gia. Đó là y áo, thức ăn, chỗ trú ngụ và thuốc trị bệnh. Nhờ đó, người bố thí tích lũy được nhiều phước lành.

Người bố thí thức ăn là người ban tặng cho người nhận năm phần phước lành: Sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ. Theo đó, trong tương lai, người bố thí ấy sẽ có đủ năm phần phước lành đó: Sống lâu, sắc tốt, yên vui, sức mạnh và trí tuệ[1]. Thêm vào đó, người ấy sẽ được năm phước lành khác nữa là:

1/ Có uy tín ảnh hưởng lớn đến mọi người.
2/ Thân cận người hiền chí.
3/ Có danh tiếng tốt đẹp được truyền rộng ra.
4/ Tự tin chứ không sợ hãi, rụt rè.
5/ Sau khi mạng chung, được tái sanh về cõi trời[2]2.

Hành động tốt hay xấu tùy thuộc vào sự tác ý trong quá trình tạo nghiệp. Cũng như vậy, trong bố thí, tác ý (cetana) mới là quan trọng chứ không phải hành động bên ngoài.

Ở đây, tác ý thiện phát khởi nơi người bố thí trong ba thời (a) trước khi bố thí tâm vui vẻ, (b) trong khi bố thí tâm tịnh tín, và (c) sau khi thực hiện bố thí xong, nhớ lại việc mình làm với tâm hoan hỷ. Làm được như vậy mới có thể tạo phước lành trong bố thí[3].

Giới hay đức hạnh (sila)
Giới là nền tảng cho toàn bộ sự thực hành con đường Bát Thánh đạo. Thêm vào đó, giới là yếu tố đầu tiên của ba loại (sikkha) là giới, định và tuệ.

Với việc tuân giữ 5 hoặc 8 hoặc nhiều hơn các nguyên tắc đạo đức thì một người tạo nhiều phước lành cho mình. Những ai sống đức hạnh sẽ có cuộc sống hạnh phúc và viên mãn trong tương lai. Người có đức hạnh không sợ hãi, vì người ấy không làm việc gì xấu ác, sai trái với mình và với người. Người ấy không ân hận, không cảm thấy tội lỗi hay tự trách mình, do đó người đức hạnh cảm thấy hoan hỷ, an lạc, bình an và hạnh phúc. Người ấy thành tựu định và tuệ để thấy các pháp đúng với bản chất như thật của chúng[4]. Thêm vào đó, người ấy có được năm phần phước lành khác:

1/ Tiền của dồi dào vì sống siêng năng cần cù.
2/ Có tiếng tốt đồn xa.
3/Không sợ hãi và bối rối.
4/Đến lúc lâm chung tâm không bấn loạn và sau khi mạng chung sẽ được sinh về cõi trời[5].

Căn bản là tất cả những hành động xét về phương diện đạo đức được chia thành ba loại: Hành động của thân, hành động của lời nói và hành động của ý. Không giết hại sinh mạng, không trộm cắp và không tà dục là hành động thuộc về thân. Hành động về lời nói có bốn phương diện: không nói sai sự thật, không nói lời thô ác, không nói lời đơm đặt gây chia rẽ và không nói lời nhảm nhí vô ích.

Cuối cùng là hành động về ý gồm có không tham lam, không sân giận và không tà kiến. Nếu không giữ giới hay sống theo chuẩn mực đạo đức, sự tiến bộ về mặt tâm linh của con người rất hạn chế.

Giới (sila) hay chuẩn mực đạo đức trong mỗi trường hợp rõ ràng là hướng đến sự đoạn trừ các hành động xấu ác. Tự hổ thẹn (tàm: hiri) và lo sợ người khác biết hành động xấu ác của mình (quý:­ ottappa) là nguyên nhân gần nhất để giúp cho việc giữ giới. Bởi vì khi tàm và quý có mặt, các chuẩn mực đạo đức được phát huy và duy trì; còn khi vắng mặt tàm và quý, các chuẩn mực đạo đức cũng không được phát huy và duy trì.

Nói một cách cụ thể hơn, có hai loại giới: Giới thế gian và giới xuất thế gian. Tất cả các giới đưa đến quả báo hữu lậu thuộc giới thế gian. Giới thế gian đưa đến đời sống tốt hơn trong tương lai và đây là một điều kiện để thoát khỏi những khổ đau trong luân hồi sanh tử. Giới đưa đến quả báo vô lậu gọi là giới xuất thế. Giới xuất thế trực tiếp đưa đến giải thoát khỏi mọi khổ đau, chấm dứt luân hồi sanh tử.

Ở đây, một lần nữa, tác ý thiện khởi lên nơi người giữ giới như một cách tạo phước lành về phương diện đạo đức hay đức hạnh.

Thực hành thiền hay phát triển tâm linh (bhavana)

Đây là một trong những lãnh vực phong phú nhất để tạo phước lành. Có hai loại thiền, là thiền chỉ (samatha), nghĩa là phát triển khả năng tập trung (Samadhi) và thiền quán (vipassana), nghĩa là trí tuệ (panna). Một hành giả có thể phát triển thiền chỉ trước rồi sau đó phát triển khả năng quán chiếu, hoặc dùng chánh niệm để từ đó phát triển khả năng quán chiếu.

Như mục đích hướng đến của thiền định, cả hai loại thiền đều có sự trải nghiệm của quán chiếu và phát triển trí tuệ. Một hành giả thực hành thiền và an tịnh những lậu hoặc thô ở trong tâm và phát triển tâm đạt đến trí tuệ chân thật, trí tuệ không phải do học từ sách vở mà có. Đó là loại trí tuệ có thể giúp hành giả chứng đạt Niết-bàn.

Một người có thể chọn tâm rộng lượng hoặc giới hạnh của chính mình chẳng hạn để làm đề mục hành thiền, trong tình huống đó, tâm người ấy không bị tham, sân và si chi phối; tâm đạt đến sự thuần chân. Do vậy, khi vị ấy ngăn chặn được những chướng ngại tâm lý (nivarana), những chi phần của thiền định sanh khởi và vị ấy có thể đạt đến trạng thái cận định (upacara-samadhi). Và nếu người ấy không thể chứng đạt trạng thái thiền cao hơn, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một cuộc sống an lành hạnh phúc.

Sự an tịnh hay thiền định đem lại ba phước báu:
1/ Tái sanh về cảnh giới an lành.

2/ Có cuộc sống hiện tại hạnh phúc và tâm an tịnh – đây là điều kiện tiên quyết của tuệ quán bằng cách thanh lọc tâm lý làm ngăn cản sự phát triển tâm linh, đồng thời chứng đạt bốn bậc thiền siêu thế và giải thoát tâm để một người có thể thấy các pháp đúng như chúng đang là, như Đức Phật dạy: “Người nào có định tâm, người ấy có thể thấy pháp như thật”[6].

3/ Tác ý thiện phát khởi nơi người có thực hành thiền trên các đề mục như hơi thở vào hơi thở ra hoặc quán kasina chẳng hạn, và chứng đạt thiền bằng con đường thiền tịnh chỉ, hoặc tác ý thiện phát khởi nơi người thực hành thiền trên các đối tượng mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và các cảm thọ cũng như các tâm khổ (dukkha) và vô ngã (anicca) thông qua con đường tuệ quán. Tất cả những tác ý hoặc xu hướng như vậy là những cách tạo phước lành trong thiền định.

Tôn kính hay cung kính (apaciti)
Tôn kính là cách tạo phước lành có thể tìm thấy trong các hành động như đứng dậy nhường chỗ và mời cha, mẹ, anh, chị hay người lớn tuổi ngồi vào chỗ mình, mang giúp hành lý cho những người ấy, cung kính chào hỏi, nhường lối đi… Hay nói chung là tôn trọng cảm xúc, quyền lợi, tài sản và cuộc sống của người khác, ứng xử với người trong tinh thần tôn trọng, tôn kính và quý trọng. Không có được thái độ bất kính, sỉ nhục hay ngắt lời khi họ đang nói. Kiềm chế tâm mình để không xúc phạm, mua chuộc hay lôi kéo ai. Một điều đáng buồn là ngày nay, thế hệ trẻ đánh mất đi sự tôn trọng, tôn kính đối với người khác.

Theo ngài Na Tiên (Nagasena), trong Mi Tiên vấn đáp (Milindapanha), có 12 hạng người không tôn trọng, tôn kính người khác: Người tham ái vì có tâm tham ái chi phối. Người sân vì có tâm sân chi phối. Người si mê vì có tâm phân vân do dự chi phối. Người kiêu ngạo vì có tâm kiêu căng chi phối. Người không có đức hạnh cao quý vì không thể phân biệt đúng sai hay dở. Người quá cứng cỏi, không ngoan ngoãn nhu thuận. Người hạ liệt vì tâm trí tán loạn. Người xấu ác vì tánh ích kỷ. Người hận thù vì ôm lòng hận thù đau khổ. Người tham lam vì không chế ngự được tâm tham. Người chỉ biết đến tài lợi trong kinh doanh vì họ chỉ biết đến cái lợi cho mình[7].

Rõ ràng rằng, ngược lại với những loại người trên, người cung kính và tôn trọng biết nuôi dưỡng tâm mình để ngày càng phát triển (và nhờ đó tích lũy phước lành), vì với thái độ sống cung kính, vị ấy cắt đứt các lậu hoặc của kiêu căng, thay vào đó là các đức hạnh, nhân cách tốt đẹp. Tôn trọng những bậc Trưỡng lão và Tăng-già là những điển hình về phương diện tôn kính. Sự tôn trọng của một vị tân Tỳ-kheo dành cho các vị Tỳ-kheo lớn hơn cũng không ngoài tinh thần tôn trọng này.

Ở đây, một lần nữa xác quyết rằng, tác ý thiện phát khởi nơi người có biểu hiện của lòng tôn kính, tôn trọng người khác. Đây là cách để tạo phước qua việc tôn trọng người khác.

Phát tâm giúp người (veyyavaca)
Đây là cách tiếp theo để tạo phước lành. Với sự phát tâm phục vụ, đáp ứng nhu cầu của những người khác với tâm từ bi, hành giả có được phước lành. Phục vụ là cách tích lũy phước lành có thể nhận thấy thông qua các việc mà chúng ta làm cho người khác, làm vì người khác. Ví dụ, chúng ta xin bát từ một vị Tăng, rửa sạch, sớt thức ăn vào và dâng lên cúng dường vị ấy.

Hồi hướng phước lành (pattanuppadana)Hồi hướng phước lành là một cách tạo phước cần được hiểu trong trường hợp một người thực hành bố thí hoặc cúng dường chẳng hạn, rồi chuyển phần phước này vào phần phước lành chung, rằng “mong đem phước lành này hồi hướng khắp pháp giới chúng sanh!”

Bây giờ, vấn đề là liệu phước lành có mất đi đối với người đã chuyển phần phước ấy? Tuyệt nhiên không. Ví như một ngọn đèn dầu, khi nó mồi sáng cho cả ngàn ngọn đèn dầu khác, không vì thế mà ngọn đèn ban đầu lu mờ đi. Ngược lại, ánh sáng của ngọn đèn ban đầu càng tỏa sáng nhiều hơn với sự góp sáng của ngàn ngọn đèn dầu kia. Cũng như thế, khi chuyển phước đi, phước lành của người ấy không hề bị suy giảm, ngược lại, phước ấy lại càng nhiều thêm lên.

Chuyển phước đến người đã mất là cách hồi hướng phước lành. Như vậy, Đức Phật tuyên bố rằng, một trong những bổn phận của con đối với cha mẹ đã qua đời là hồi hướng phước lành đến người đã mất[8].

Hoan hỷ với phước lành của người khác (abbhanumodana).
Hoan hỷ với phước lành của người khác là cách tạo phước cho bản thân. Tùy hỷ ở đây được hiểu là tâm hoan hỷ khi thốt ra lời “ồ, làm như vậy là tốt quá, hay quá!” khi người khác chia phước với ta, hoặc khi thấy họ làm nhiều việc phước lành khác. Đây cũng là một trong bốn tâm vô lượng, tâm hỷ vô lượng vậy.

Giải thích hay giảng dạy kinh pháp (desana)
Nếu một người giải thích hay giảng pháp với tâm tham cầu vật chất hay danh tiếng, “như vậy họ sẽ biết ta là một pháp sư” thì việc giảng dạy giáo pháp này không đem lại một chút phước lành nào cả. Tuy nhiên, nếu một người đạt đến sự giải thoát khỏi khổ đau, không để khổ đau chi phối, và họ đem những trải nghiệm bản thân để giải thích hoặc giảng dạy cho người khác pháp mà bản thân vị ấy đã thuần thục, thì đây là cách tạo phước lành trong việc giảng giải giáo pháp.

Một điều đáng ghi nhận rằng Đức Phật tuyên bố, trong các loại bố thí, bố thí pháp là cao thượng nhất. Nói cách khác, một người có thể mở con mắt pháp cho người khác bằng cách giải thích, giảng dạy, diễn giải pháp cho người ấy hiểu, thì đây là món quà lớn nhất và cao cả nhất dành cho tất cả. Thật ra, Đức Phật từng dạy rằng, nếu một người chăm sóc cha mẹ bằng cách cõng cha và mẹ trên vai trọn đời cũng không thể nào đáp đền công ơn của cha mẹ. Cách duy nhất để có thể đền ơn cha mẹ là giảng dạy giáo pháp và đưa cha mẹ an trú trong Chánh pháp. Ngay cả ngài Xá Lơi Phất (Sariputta), bậc đã chứng A-la-hán, khi thấy mình không còn khỏe nữa, trước khi nhập Niết-bàn, ngài trở về nhà, giảng giải Phật pháp cho mẹ ngài và giúp mẹ chứng đạt giải thoát rồi ngài mới vào Niết-bàn.

Một người có thể dâng cúng cho tất cả chư đệ tử Phật với bốn vật dụng thiết yếu trong cuộc sống như y phục, thức ăn, chỗ trú ngụ và thuốc trị bệnh với những loại tốt nhất có thể, hoặc cung cấp cho tất cả mọi người mọi thứ vật chất. Thế nhưng, đó vẫn chưa phải là bố thí tối thượng, mà giúp họ hiểu giáo pháp với một bài kệ vỏn vẹn chỉ có bốn câu thôi, vẫn được tán thán là đã tặng món quà tối thượng và cao quý nhất trong tất cả các loại bố thí.

Như vậy, bố thí pháp nghĩa là giảng dạy và giải thích giáo pháp cho người khác, đưa người ra khỏi con đường mê lầm sai lạc, đưa họ về con đường chân chánh và chỉ cho họ hiểu đâu là đạo đức. Thêm vào đó, tổ chức các buổi thảo luận giáo pháp, viết và in sách luận về giáo pháp… cũng là những cách bố thí pháp vậy.

Nghe pháp (savana)
Nếu một người nghe pháp mà phát khởi suy nghĩ rằng “như vậy họ đưa ta đến đau khổ” thì việc nghe pháp ất chẳng đem lại lợi ích gì cả. Tuy nhiên, nếu một người nghe pháp mong mình và người khác có được lợi ích nghĩ rằng “việc nghe pháp như vậy đem lại nhiều lợi ích cho ta”, thiện ý này là cách tạo phước lành khi nghe pháp vậy.

Chuyển tà kiến thành chánh kiến (ditthijju-kamma)

Thiện ý giúp người điều chỉnh nhận thức theo con đường chân chánh là một cách tạo phước lành. Thật ra, hiểu biết chân chánh là đặc điểm đích thực của tất cả mười cách tạo phước lành trình bày ở đây. Vì chỉ với chánh kiến, một người mới có thể tạo nhiều phước lành, trong bất cứ lãnh vực tạo phước nào. Bất cứ phước lành nào làm được đưa đến kết quả viên mãn nhất đều được làm với nhận thức chân chánh, đúng đắn, bằng không thì đưa đến kết quả ngược lại. Đây là lý do Đức Phật dạy: “Với hiểu biết của ta, ngoài chánh kiến, không có pháp nào khác mà nhờ pháp ấy các pháp thiện chưa sanh được sanh khởi được nuôi dưỡng tăng trưởng và hoàn thiện”[9].

Theo Đức Phật có hai loại chánh kiến: chánh kiến hữu lậu và chánh kiến vô lậu.

Hiểu biết rằng bố thí cúng dường là tốt, rằng cả hành động tốt và xấu đều đưa đến quả báo tốt xấu tương ứng với những gì đã tạo, đó là chánh kiến hữu lậu, vì mặc dù còn phải chịu sự chi phối của các lậu hoặc, đây là các việc làm tạo phước lành, đưa đến quả báo tốt đẹp thế gian. Thế nhưng những gì thuộc về trí tuệ, thể nhập, chánh kiến liên kết với con đường thánh thì được gọi là chánh kiến vô lậu[10].

Nguyệt San Giác Ngộ 238

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét