PHÁ HUỶ RỪNG GIÀ, TẬN DIỆT THÚ HOANG
Đầu năm 2020, siêu vi gây dịch Covid-19 làm rung chuyển Trung Quốc, rồi cũng chỉ một một vài tuần toàn thế giới cũng hoảng loạn. Nhiều người tìm căn nguyên trong việc Bắc Kinh dấu dịch khiến quốc tế bị động.
Không ít người phê phán phương Tây chủ quan. Tuy nhiên giới khoa học về sinh thái chỉ ra cội rễ sâu xa của đại dịch chưa từng có. Đó là nền văn minh công nghiệp đương đại lấy khai thác triệt để thiên nhiên làm mục tiêu.
Khi rừng già bị hủy hoại, thú hoang bị tận diệt, virus bành trướng tấn công con người là điều ‘‘không tránh khỏi’’. Mục ‘‘Theo dòng thời sự’’ của RFI xin tổng hợp nhận định của một số chuyên gia, nhà nghiên cứu Pháp trong lĩnh vực sinh thái học, về chủ đề ‘‘Cội rễ của đại dịch Covid-19’’.
Vì sao phá hủy rừng già, tận diệt thú hoang là cội nguồn dẫn đến đại dịch?
Cho đến nay, vẫn còn nhiều bí ẩn bao trùm xung quanh sự xuất hiện của virus corona mới gây bệnh Covid-19, tên khoa học là SARS-CoV-2, đang khiến toàn thế giới chao đảo, đặc biệt trong bối cảnh Bắc Kinh không tạo điều kiện cho giới khoa học quốc tế đến thành phố Vũ Hán, nơi dịch bùng phát, tiếp cận hiện trường. Không ít người đặt giả thiết loài virus này thoát ra từ một phòng thí nghiệm đặc biệt ở Vũ Hán, chuyên nghiên cứu về các virus nguy hiểm. Thậm chí có người còn cho virus SARS-CoV-2 là một vũ khí sinh học bí mật. Không đi vào các nhận định, suy luận khó kiểm chứng này, về đại dịch Covid-19, giới sinh thái nhìn chung đều thống nhất ở một điểm: virus SARS-CoV-2, gây dịch Covid-19 có nguồn gốc động vật hoang dã, cũng giống như khoảng một nửa số loài virus tấn công con người, từ gần một thế kỷ nay.
Từ virus gây bệnh Sida (được cho là truyền từ loài vượn), đến Ebola ở Tây Phi (truyền qua dơi), hay virus H5N1 (truyền qua chim), hay bệnh sốt rét, sốt xuất huyết hay Zika tại châu Mỹ (truyền qua muỗi)… virus SARS xuất hiện tại châu Á năm 2002 (được truyền từ cầy hương)… Việc phá hủy rừng, để trồng trọt, xây dựng thành phố, khiến các loài động vật hoang dã mất nơi sinh sống làm gia tăng nguy cơ động vật hoang tiếp xúc với động vật nhà, với con người, khiến virus dễ dàng bành trướng.
Trong một bài trả lởi phỏng vấn báo Libération, ông Serge Morand, giám đốc nghiên cứu CNRS, chuyên gia về sinh thái học y tế, nhấn mạnh đến tình trạng, kể từ những năm 1960 đến nay (tương đương với thời kỳ công nghiệp hoá mãnh liệt trên quy mô toàn cầu), ‘‘ngày càng có nhiều bệnh dịch trong năm hơn, dịch bệnh lan rộng hơn…’’, tỉ lệ các dịch bệnh được gọi là ở quy mô ‘lịch sử’’ nhiều hơn (bài '‘La crise du coronavirus est une crise écologique / Khủng hoảng virus corona là một cuộc khủng hoảng sinh thái’’, ngày 26/03/2020).
Theo nhà sinh thái học Serge Morand, có ba nhân tố đồng thời khiến dịch bệnh có nguồn gốc từ động vật nói chung, động vật hoang dã nói riêng, bùng phát. Ba nhân tố đều liên quan đến vấn đề đa dạng sinh học.
Thứ nhất là sự suy giảm ngày một nghiêm trọng của đa dạng sinh học, nói cách khác, tốc độ tuyệt chủng các giống loài gia tăng.
Thứ hai là nông nghiệp ngày càng biến thành một ngành công nghiệp, nhân tố góp phần mạnh mẽ vào sự suy giảm đa dạng sinh học.
Thứ ba là sự phát triển đột biến của ngành giao thông hàng hoá và vận tải người. Sự phát triển về giao thông này vừa là nhân tố khiến dịch bệnh dễ dàng lan rộng, do các tiếp xúc gia tăng giữa người với người, về tần số, về số lượng, vừa là yếu tố kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất coi khai thác ‘‘tài nguyên’’ thiên nhiên hoang dã là mục tiêu. Giao thông tăng trưởng gắn liền với kinh tế tăng trưởng, nhưng cũng là con đường giúp dịch bệnh tăng trưởng đột biến, dễ dàng di chuyển từ vùng này đến vùng khác.
Một vài con số minh hoạ:
Thế giới hiện nay có 1,5 tỉ bò nuôi, 25 tỉ gà nuôi, hàng tỉ con heo… Tất cả thường được nuôi bằng các loại hạt được trồng theo phương thức công nghiệp hoá, như đậu tương. Để có diện tích nuôi gia súc, gia cầm, đất trồng cây làm thức ăn cho chúng, các diện tích rừng khổng lồ đã bị hủy diệt… Các loài động vật hoang dã, bị dồn đuổi, ngày càng đến gần hơn, nhiều hơn với thế giới con người… Vận tải hàng không, tăng gấp 12 lần giữa năm 1960 đến 2018, giao thông hàng hải cũng tương tự… Tất cả những yếu tố này quá đủ làm nguyên liệu cho "những trái bom’’ dịch bệnh, sẵn sàng phát nổ.
Những con đường đưa các sinh vật ‘‘nguy hiểm’’ đến với thế giới con người
Nhà sinh thái học Rodolphe Golza, giám đốc nghiên cứu IRD, trong bài trả lời tuần báo L’Obs, lưu ý đến tập quán buôn bán động vật hoang dã, làm thực phẩm hay vì các mục tiêu khác, trở nên hết sức phổ biến, với quy mô lớn tại Trung Quốc, tạo nên một không gian lý tưởng cho sự tăng trưởng của nhiều loài siêu vi, kênh truyền virus dễ dàng từ động vật sang người (bài ‘‘ ‘Le Covid-19 était inévitable, et même prévisible’ du fait de notre impact écologique / ‘‘ ‘Covid - 19 là không thể tránh khỏi thậm chí có thể báo trước’ do tác động sinh thái của xã hội con người ’’, ngày 17/03/2020).
Giám đốc nghiên cứu sinh thái học, Viện IRD, nhấn mạnh đến việc khi không gian sinh sống truyền thống của các loài sinh vật hoang dã bị phá hủy, do con người hay do thiên tai, các mầm bệnh được truyền đi khắp nơi, trong quá trình này, trong một số điều kiện nhất định, chúng có thể tìm được các vật trung gian phù hợp hơn, trở thành các phương tiện truyền bệnh hiệu quả hơn. Ông đặc biệt chú ý đến việc một số không gian sinh sống bị phá hủy dẫn đến sự diệt vong của một số giống loài tuy mang các bệnh truyền nhiễm, nhưng khả năng lây lan không cao, việc chúng bị hủy diệt khiến virus bành trướng, phát triển theo nhiều con đường bất thường. Đây là điều mà ông gọi là ‘‘hiệu ứng lan toả’’.
Để virus từ một động vật hoang dã truyền được đến con người và trở thành yếu tố gây dịch bệnh, virus thường phải sự đột biến về gen, mới có thể xâm nhập vào tế bào người. Cụ thể về dịch Covid-19, theo giáo sư Serge Morand, virus corona mới xuất phát từ loại dơi (‘‘khả năng chắc chắn đến 98%’’), việc biến đổi về gen để thích ứng với cơ thể người xảy ra trong quá trình chúng sống ký sinh trên một động vật trung gian (có thể là qua loài tê tê hoặc một loài khác). Và loài vật trung gian này thường là một loại vật hoang dã có nhiều tiếp xúc với con người.
Thuần hóa các động vật hoang: Một kênh truyền bệnh chính
Theo các nhà sinh thái học, việc thuần hóa các động vật hoang dã đã từng là nguyên nhân dẫn đến nhiều căn bệnh truyền nhiễm hiện nay, như cúm, sởi, sởi Đức, bệnh đậu mùa hay quai bị… Loại người chúng ta cùng với chó, bò hay lợn, có nhiều căn bệnh chung hơn là so với giữa người với thỏ, bởi với ba loài trên, thời gian thuần hoá diễn ra vào khoảng 17.000 đến 10.000 năm trước, loài thỏ mới chỉ được thuần hóa từ 2.000 năm nay. Bệnh truyền nhiễm cũng đến từ loài chuột (sống cạnh loài người từ khoảng 10.000 năm). Loài chuột làm trung gian truyền các bệnh từ các loại gặm nhấm hoang dã sang người, loài chó truyền các bệnh từ chồn hay sói. Về phía các loài chim, vịt nhà là nơi trung gian truyền các virus gây cúm từ vịt hoang… Việc thuần hóa một số giống loài mới đây, ví dụ như nuôi chồn tại nhiều nước Đông Nam Á, để phục vụ cho ngành sản xuất ''cà phê chồn'', có thể là các kênh truyền bệnh mới.
Triệt phá môi trường nuôi dưỡng các siêu vi có phải là giải pháp?
Một số người muốn tận diệt một số giống loài được coi là mang bệnh để huỷ bỏ hết nơi trú ẩn của virus, giúp loài người không còn bị dịch bệnh quấy rối. Giấc mơ này cũng tựa như việc tiêu huỷ hết rừng để không còn bị cháy rừng. Theo các nhà sinh thái học, thì cần phải làm điều ngược lại. Có một thực tế là số lượng bệnh truyền nhiễm càng tăng khi các giống loài càng bị tiêu diệt, siêu vi sẽ tản đi khắp nơi để tìm đường sống. Chuyên gia Serge Morand lưu ý là chính việc bảo vệ các môi trường tự nhiên, phong phú về hệ sinh thái, khiến các loài virus có thể gây bệnh, tuy hiện diện nhiều, nhưng chúng sống gắn liền và phụ thuộc vào một số địa bàn cụ thể, hay nói cách khác ăn ở yên lành tại đấy, không thể di chuyển dễ dàng sang nơi khác, để gây các dịch lớn.
Về dịch bệnh và chăn nuôi, nhà sinh thái học Serge Morand tố cáo phương pháp dập dịch gia cầm bằng cách tiêu diệt ồ ạt các giống gia cầm địa phương, để thay thế bằng các giống công nghiệp, được cho là thích hợp với ‘‘chăn nuôi lớn’’, như trong dịch H5N1 tại Thái Lan (năm 2004), dịch cúm gia cầm H5N8 ở Hàn Quốc (năm 2016)... Chính Tổ Chức Nông Lương của Liên Hiệp Quốc (FAO) đã khuyến khích cách làm này, trong khi bản thân FAO cũng thừa nhận kể từ đầu thế kỷ XX, nhân loại đã mất đi khoảng 30% giống gà, 20% giống heo…, vốn là sản phẩm của quá trình tiến hoá, lai tạo hàng trăm, hàng nghìn năm. Điều căn bản mà nhiều người không hiểu là, chính sự đa dạng về di truyền của các vật nuôi, khiến cho các bệnh truyền nhiễm không dễ lây lan, biến thành đại dịch. Nhiều giống vật nuôi lâu đời, sống gắn với một địa bàn cụ thể, thường có khả năng kháng cự rất tốt với dịch bệnh. Tính đa dạng sinh học cũng cản trở virus tác oai, tác quái.
Nhìn chung, theo giáo sư Rodolphe Golza, trong kỷ Nhân Sinh (Anthropocène), thuật ngữ địa chất học dùng để chỉ thời kỳ con người trở thành thế lưc có khả năng làm biến đổi sâu sắc toàn bộ hành tinh, thì rất có nguy cơ nhiều bệnh truyền nhiễm hoàn toàn mới xuất hiện. Do sự huỷ hoại các không gian sống tự nhiên của các loài sinh vật hoang dã, do tính siêu kết nối của nhân loại hiện nay (như đã nêu), nhưng đặc biệt cũng do Biến đổi khí hậu, có khả năng tác động rất lớn đến thế giới sinh vật hoang dã (đặc biệt do sự thay đổi của nơi cư trú), đến quan hệ giữa con người với các động vật hoang dã.
Học thiên nhiên để sống với thiên nhiên
Bên cạnh việc bảo vệ thiên nhiên hoang dã, chuyên gia sinh thái Serge Morand đề xuất phát triển mạnh các hình thức nông nghiệp thuận tự nhiên, trồng rừng thuận tự nhiên, chăn nuôi thuận tự nhiên…, để góp phần bảo vệ đa dạng sinh học, điều kiện để các loài virus nguy hiểm không dễ dàng trực tiếp đến với con người. Trên thực tế, vấn đề dịch bệnh từ các loài động vật hoang dã truyền sang người là một lĩnh vực còn đầy bí ẩn, cần phải có sự phối hợp nghiên cứu giữa giới y khoa, thú y, sinh thái học, cũng như những nhà nghiên cứu xã hội, chính trị, để có các chính sách phù hợp ‘‘tránh cho các bệnh dịch không biến thành khủng hoảng y tế".
Để có một chiến lược phù hợp trong vấn đề mang tính sống còn này, xã hội con người cần thay đổi triệt để cách tiếp cận. Nhà nghiên cứu Aleksandar Rankovic, Viện tư vấn về Phát triển bền vững và Quan hệ quốc tế (IDRRI), nhấn mạnh là cần thay thế lối suy nghĩ theo kiểu con người khai thác, thống trị thiên nhiên lâu nay, bằng một cách nghĩ thật sự khiêm nhường, để con người có cơ hội hiểu được sự kỳ diệu của tự nhiên, để biết học cách chung sống với tự nhiên (theo nhà sinh thái Rodolphe Golza, cùng đối mặt với khủng hoảng nhưng một số quốc gia, đặc biệt là các nước châu Á, như Nhật Bản, Malaysia, Singapore, và kể cả Trung Quốc, đã có truyền thống đối phó với dịch bệnh thường xuyên, nên có một số phản ứng nhanh chóng và hiệu quả hơn).
Khủng hoảng Covid-19 là một khủng hoảng sinh thái, ‘‘khủng hoảng mang tính hệ thống’’, một cuộc đại khủng hoảng. Một bộ phận giới chính trị dường như đã bắt đầu thừa nhận điều này. Chỉ có các phối hợp tập thể trên quy mô toàn cầu mới có khả năng giúp nhân loại tìm được lối thoát cho cuộc đại khủng hoảng hiện nay.
Trọng Thành
Những gì về Covid-19 chúng ta vẫn chưa biết
Nó cảm thấy dài như một sự vĩnh cửu trước đây, nhưng thế giới chỉ biết đến virus corona vào tháng 12.
Bất chấp nỗ lực đáng kinh ngạc của các nhà khoa học trên khắp thế giới, vẫn còn nhiều điều chúng ta không hiểu về virus corona, và tất cả chúng ta giờ đây là một phần của một thí nghiệm trên khắp hành tinh đang cố gắng tìm câu trả lời.
Dưới đây là một số thắc mắc vẫn chưa được trả lời.
1. Bao nhiêu người đã bị nhiễm bệnh.
Đây là một trong những câu hỏi cơ bản nhất, nhưng cũng là một trong những câu hỏi quan trọng nhất.
Đã có hàng trăm ngàn trường hợp được xác nhận trên toàn thế giới, nhưng đây chỉ là một phần nhỏ trong tổng số ca nhiễm bệnh. Và các con số còn bị nhầm lẫn bởi một số trường hợp có triệu chứng không xác định được - những người nhiễm virus nhưng không cảm thấy bị bệnh.
Phát triển một xét nghiệm kháng thể sẽ cho phép các nhà nghiên cứu xem liệu có ai đã nhiễm virus hay không. Chỉ sau đó chúng ta mới hiểu bệnh dịch virus corona đã lây lan bao xa hoặc dễ dàng như thế nào.
2. Nó thực sự nguy hiểm mức nào.
Cho đến khi chúng ta biết có bao nhiêu trường hợp đã xảy ra, không thể chắc chắn về tỷ lệ tử vong. Hiện tại, ước tính có khoảng 1% số người nhiễm virus này chết. Nhưng nếu có số lượng lớn bệnh nhân không có triệu chứng, tỷ lệ tử vong có thể thấp hơn.
3. Danh sách đầy đủ các triệu chứng.
Các triệu chứng chính của virus corona là sốt và ho khan - đây là những triệu chứng bạn nên chú ý.
Một cơn đau họng, đau đầu và tiêu chảy cũng đã được báo cáo trong một số trường hợp và có suy đoán rằng việc mất khứu giác có thể ảnh hưởng đến một số người.
Nhưng câu hỏi quan trọng nhất là liệu các triệu chứng nhẹ, giống như cảm lạnh, sổ mũi hoặc hắt hơi, có ở một số bệnh nhân hay không. Các nghiên cứu cho thấy có triển vọng là mọi người có thể bị lây nhiễm mà không biết rằng họ đang mang virus trong người.
4. Vai trò của trẻ em trong việc gây nhiễm
Trẻ em chắc chắn có thể bị nhiễm virus corona. Tuy nhiên, các em đa số phát triển các triệu chứng nhẹ và có tương đối ít trường hợp tử vong trẻ em so với các nhóm tuổi khác.
Trẻ em thường là những kẻ lây lan bệnh tật tích cực, một phần vì chúng gần gũi với nhiều người (thường ở sân chơi), nhưng với loại virus này, không rõ các em giúp lây lan đến mức độ nào.
5. Virus này chính xác đến từ đâu.
Virus corona xuất hiện ở Vũ Hán, Trung cộng, vào cuối năm 2019, nơi có một nhóm các trường hợp bị nhiễm tại một chợ động vật.
Virus corona, có tên chính thức là Sars-CoV-2, có liên quan chặt chẽ với virus lây nhiễm loài dơi, tuy nhiên người ta cho rằng virus này được truyền từ dơi sang một loài động vật bí ẩn sau đó truyền sang người.
6. Liệu bệnh dịch có giảm đi vào mùa hè.
Cảm lạnh và cúm phổ biến hơn trong những tháng mùa đông so với mùa hè, nhưng vẫn chưa biết liệu thời tiết ấm hơn có làm thay đổi sự lây lan của virus hay không.
Các cố vấn khoa học của chính phủ Anh cảnh báo rằng không rõ liệu virus này sẽ có hiệu ứng theo mùa hay không. Nếu có, họ nghĩ rằng nó có thể nhỏ hơn so với cảm lạnh và cúm.
Nếu số người bị nhiễm virus corona giảm mạnh trong mùa hè, có một nguy cơ là các trường hợp sẽ tăng đột biến vào mùa đông, khi các bệnh viện cũng phải đối phó với một loạt các bệnh nhân mắc phải các vi trùng mùa đông thông thường.
7. Tại sao có người bị những triệu chứng nghiêm trọng hơn.
Covid-19 là một bệnh nhiễm trùng nhẹ đối với hầu hết. Tuy nhiên, khoảng 20% bệnh nhận tiếp tục bị bệnh nặng hơn, nhưng tại sao?
Sức khỏe hệ thống miễn dịch của bệnh nhân dường như là một phần của vấn đề, và cũng có thể có một số yếu tố di truyền nữa. Hiểu điều này có thể dẫn đến cách giúp mọi người không phải cần đến sự chăm sóc đặc biệt.
8. Miễn dịch kéo dài bao lâu, và liệu bạn có thể bị nhiễm hai lần.
Đã có nhiều suy đoán nhưng ít bằng chứng về khả năng miễn dịch với virus corona.
Để thành công trong việc chống lại virus corona, bệnh nhân phải xây dựng được một phản ứng miễn dịch. Nhưng vì căn bệnh này chỉ mới xuất hiện được vài tháng nên thiếu dữ liệu dài hạn. Tin đồn về việc bệnh nhân bị nhiễm hai lần có thể là vì các xét nghiệm không chính xác nói rằng họ đã không còn virus trong người.
Câu hỏi về miễn dịch rất quan trọng để hiểu những gì sẽ xảy ra trong dài hạn.
9. Liệu virus có sẽ biến đổi.
Virus luôn luôn biến đổi, nhưng hầu hết các thay đổi về mã di truyền của chúng không tạo ra sự khác biệt đáng kể.
Theo nguyên tắc chung, chúng ta kỳ vọng virus sẽ biến hóa để ít gây chết người hơn trong thời gian dài, nhưng điều này không được đảm bảo.
Mối quan tâm là nếu virus biến đổi, thì hệ thống miễn dịch không còn nhận ra nó và một loại vắc-xin cụ thể không còn hoạt động (như đã xảy ra với bệnh cúm).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét