Nhân quả ba đời của người ăn mày mù lòa
Cậu bé mù lòa vừa ra đời đã bị bỏ rơi, đến khi được người nhận nuôi rồi cũng vẫn trở thành mồ côi mà đi ăn mày kiếm sống. Cậu đã biết được nguyên nhân vì sao mà bản thân phải chịu nhiều đau khổ đến vậy!
Ngày nọ, một người ăn mày mù bị một đứa trẻ dùng côn gỗ đánh vào trán làm sưng lên một cái u. Anh ta dùng tay sờ lên chỗ sưng với vẻ mặt không hề tức giận. Vừa dùng tay xoa xoa chỗ đau, vừa cười cười. Một tên ăn mày khác nhìn thấy vậy cảm thấy vô cùng khó hiểu, liền hỏi:“Cậu mỗi lần bị đánh đều vui tươi hớn hở. Lòng của cậu sao có thể độ lượng rộng lớn như vậy?”
Người ăn mày mù nói: “Tôi đang tìm lại phúc báo của mình!”
“Thật là khó hiểu?” Tên ăn mày ngồi bên cạnh thốt lên.
Người ăn mày mù trầm ngâm một lát rồi nói: “Tôi sẽ kể cho cậu nghe câu chuyện này thì cậu sẽ hiểu ngay!”
Nói rồi, người ăn mày mù bắt đầu cất lời kể:
Trước đây rất lâu rồi, cách kinh thành không xa có một gia đình giàu có, chủ nhân tên là Lý Phóng. Mặc dù vô cùng giàu có nhưng mãi đến tuổi trung niên, vợ chồng họ mới có con nên vô cùng vui mừng và đặt tên là Đại Hỷ.
Hai vợ chồng họ vui mừng quá không biết đối xử với đứa con này thế nào cho phải nên nuông chiều Đại Hỷ từ bé, muốn gì được đấy, thậm chí đứa trẻ muốn đánh ai thì đánh, cả gia đình và người ở đều vui vẻ tiếp nhận.
Khi Đại Hỷ lớn lên, cậu ta càng hoành hành ngang ngược, khiến cho hàng xóm láng giềng sống cũng không được yên thân. Mỗi ngày Đại Hỷ đều tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền bạc.
Một ngày, Đại Hỷ đang đi trên đường thì gặp một cô gái xinh đẹp, hắn ta lập tức nảy sinh ý đồ xấu, có hành vi khiếm nhã với cô gái. Cô gái đang lúc sợ hãi thì gặp được một vị lão hòa thượng cứu đi.
Ngày hôm sau, Đại Hỷ tìm đến ngôi chùa mà vị lão hòa thượng kia sinh sống. Vừa bước vào cửa chùa thì lão hòa thượng cũng từ cửa chính đi ra. Đại Hỷ đoán rằng cô gái đó trốn ở bên trong nên muốn xông vào tìm thì bị lão hòa thượng ngăn lại. Đại Hỷ không nói không rằng, dùng gậy gỗ đánh vào đầu lão hòa thượng. Có lẽ, vì đánh trúng vào huyệt nên vị lão hòa thượng lăn ra mặt đất và qua đời.
Đại Hỷ bị quan phủ bắt và bị kết tội phải đền mạng. Hắn ta không những không hối cải mà còn đổ tội cho vị lão hòa thượng đã chiếm đoạt cô gái kia của anh ta. Gia đình vì muốn giải vây của con trai, miễn khỏi chịu tội nên đã bán sạch gia tài để nhờ quan huyện tha mạng cho.
Ngay khi chuộc Đại Hỷ về, không ngờ đêm đó nhà họ bị cháy dữ dội, người mẹ bị lửa bốc lên làm mù mắt, người cha bị bỏng liệt người, rồi qua đời sau đó không lâu.
Cả người cả của đều bị tan biến mất, lúc này Đại Hỷ mới bừng tỉnh ngộ. Hắn ra sức làm mọi cách hiếu kính với mẹ, làm các việc mà xưa nay chưa từng làm như nấu cơm, giặt quần áo, đi làm thuê kiếm gạo. Cứ như vậy mãi cho đến khi người mẹ qua đời. Mấy năm sau, Đại Hỷ cũng vì bị bệnh tật không có tiền cứu chữa mà ra đi.
Đại Hỷ khi xưa chính là tôi ở kiếp này. Ngay từ khi ra đời tôi đã bị mù và bị cha mẹ bỏ rơi. Người nhặt tôi về nuôi chính là một người phụ nữ nhặt ve chai tàn tật. Tôi dựa vào sự chăm sóc của mẹ nuôi mà lớn lên. Sau đó, mẹ nuôi của tôi vì bị bệnh mà qua đời. Tôi lại trở thành đứa trẻ mù mồ côi.
Hôm ấy vì quá đau khổ, tôi đã đến bên mộ của mẹ nuôi tôi ngồi tựa vào đó mà khóc, tôi gào khóc đến chết đi sống lại, vừa khóc vừa trách mắng ông trời bất công, mãi cho đến lúc mệt quá mà thiếp đi lúc nào không hay. Trong giấc ngủ thiếp đi ấy, tôi đã gặp một ông lão tóc bạc phơ, mờ ảo hiện ra.
Ông lão ấy đưa tay vẽ một cái, làm tái hiện lên rất nhiều việc hung ác khiến tôi thấy sợ. Cuối cùng ông lão thở dài nói: “Tất cả những tội ác ban nãy ngươi chứng kiến, đều là ngươi đã làm ở kiếp trước đấy!
Tội nghiệp của ngươi quá lớn, không những bắt nạt con trai, ức hiếp con gái, tiêu xài phung phí mà điều không thể tha thứ chính là phỉ báng, đánh chết người tu hành. Tội nghiệp vô cùng sâu nặng, nhưng niệm tình ngươi cuối cùng đã biết tận hiếu với mẹ già nên ngươi mới được đầu thai làm người. Được làm người nhưng phải chịu tội, ba đời không có tiền bạc, ba đời không có hôn nhân, ba đời làm ăn mày mù. Mẹ nuôi của ngươi ở kiếp này chính là mẹ của ngươi ở kiếp trước, bởi vì kiếp trước ngươi có hiếu với mẹ nên kiếp này bà ấy đã nhận nuôi ngươi khôn lớn. Ở kiếp này, nếu như ngươi có thể giữ được tâm tính làm người tốt thì mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng, khổ tận cam lai, kiếp sau sẽ có phúc báo!”
Người xưa thường nói: “Người đáng thương tất có chỗ đáng giận!” Từ câu chuyện có thể thấy, thiện ác có báo là thiên lý. Hãy hành thiện tích đức để kiếp này và kiếp sau được hưởng phúc báo!
Theo Soundofhope - Mai Trà biên dịch
Nhân quả ba đời của cậu bé bán bánh nướng
Nhân quả báo ứng, đứng về phương diện thời gian mà nói thì chính là mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai. Trong kinh Phật có thuyết pháp “Tam thì báo” chính là hiện báo, sinh báo và hậu báo. Hiện báo, hay nói chính xác là hiện thế báo, là có báo ứng ở hiện tại. Sinh báo chính là chỉ việc kiếp này làm thì kiếp sau mới có báo. Cái gọi là “báo” chính là nói kiếp này làm đủ loại nghiệp, không bị hiện thế báo, cũng không bị sinh báo, mà phải qua nhiều kiếp nữa mới bị báo.
Chúng ta hãy lấy thực vật làm ví dụ: Có loại cây trồng vào mùa xuân, mùa thu đã ra hoa kết quả, đây gọi là “hiện báo”. Có loại năm nay trồng, sang năm có thể ra hoa kết quả, đây tương đương với “sinh báo”. Còn có loại cây năm nay trồng lại phải đợi nhiều năm sau mới ra hoa kết quả, đây được gọi là “hậu báo”.
Có một bài thơ viết thế này:“Hành tàng hư thực tự gia tri, họa phúc nhân do canh vấn thùy? Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chích tranh lai tảo dữ lai trì.” (Ý nói: Các việc làm minh bạch hay bí ẩn, hư thực thì tự mình biết. Họa phước sẽ từ đấy mà ra, lại còn phải hỏi ai? Thiện ác cuối cùng rồi cũng có báo ứng, chỉ đến sớm hay đến muộn mà thôi).
Tục ngữ cũng có câu: “Không phải không có báo mà là chưa đến thời điểm”, theo thời gian thì quả báo chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
Chúng ta thường nghe có người phàn nàn: “Bà Trương ăn chay quanh năm, niệm kinh tụng Phật, đã làm không ít việc tốt. Thế nhưng mà cả đời bà lại gặp nhiều điều không may, dường như không có ngày nào là suôn sẻ thoải mái từ sáng đến tối cả. Ông trời thật không có mắt! Người tốt như vậy, mà lại phải chịu số phận xui xẻo, đâu còn nhân quả báo ứng nữa?” Hay có người lại kêu: “Bà kia không điều ác nào không làm, phải sớm bị trời trừng phạt mới đúng! Nhưng mà, mọi người xem, bà ấy lại vừa giàu có vừa sung sướng, chẳng phải chịu đựng sự trừng phạt nào. Ông trời đúng là không có mắt!” Đối với những vấn đề này, đôi khi ngay cả người rất tin Thần Phật cũng khó tránh khỏi dấy lên ý nghĩ nghi ngờ. Kỳ thực, hết thảy những điều này đều có liên quan đến nhân quả.
Bà Trương có tâm hướng Phật, tích đức hành thiện, nhưng lại không được phúc báo là bởi vì kiếp trước bà còn thiếu nợ nhiều lắm. Nghiệp lực trong quá khứ của bà còn chưa được hoàn trả hết ở kiếp này. Cho dù kiếp này công đức như núi nhưng phải hoàn trả nghiệp trong quá khứ nên việc vẫn phải chịu khổ là không thể tránh khỏi. Bà Trương phải chờ đến khi nghiệp lực được tiêu trừ hết thì mới được hưởng phúc báo.
Còn người làm điều ác mà vẫn hưởng hạnh phúc, sung sướng là vì kiếp trước họ có phúc lớn, sang kiếp này vẫn chưa dùng hết. Đợi đến lúc người đó dùng hết rồi thì ắt sẽ phải chịu khổ chịu nạn ngay lập tức.
Có một câu chuyện kể về nhân quả giữa quá khứ, hiện tại và tương lai như thế này:
Trước đây có một vị hòa thượng phát tâm muốn xây dựng một ngôi chùa, ông liền đi hóa duyên. Hóa duyên trong kinh Phật trước đây không phải chỉ là đi xin ăn như bây giờ mà là lựa chọn hoặc ngồi, hoặc đứng hoặc đến nơi dân chúng, tụng kinh, thuyết pháp để cảm hóa dân chúng, cùng chúng sinh kết thiện duyên và cùng nhau xây dựng chùa.
Thế nhưng, vị hòa thượng đó, ở một nơi kia vất vả tụng kinh niệm Phật, niệm đến hơn ba tháng ròng rã mà vẫn không có người nào để ý đến ông cả.
Thế rồi, một cậu bé bán bánh nướng ở bên cạnh nhìn thấy vị hòa thượng này quá khổ sở, cậu thật không đành lòng. Lòng từ bi của cậu bé tự nhiên sinh ra, cậu liền nghĩ: “Được! Vị hòa thượng kia cực khổ như vậy, mình sẽ đem bánh nướng bán đi rồi cho ông ấy tiền!” Thế là, ngày hôm đó cậu bé bán được bao nhiêu tiền bánh nướng đều mang về quyên hết cho vị hòa thượng kia.
Cả thị trấn đó, ai ai cũng nghe nói cậu bé bán bánh nướng quyên tiền cho vị hòa thượng nên sinh lòng hổ thẹn và tự nghĩ: “Đứa bé bán bánh nướng mà cũng biết phát tâm hành thiện tích đức, mình đúng là bủn xỉn. Chẳng lẽ mình còn không bằng một đứa trẻ sao?” Thế rồi, cứ một người truyền mười người, mười người lại truyền một trăm người. Ông này quyên tiền, bà kia góp tiền, chẳng bao lâu đã đủ tiền để xây dựng chùa.
Vị hòa thượng vô cùng cảm kích cậu bé này, ông nói với cậu bé: “Này cậu bé! Cậu hôm nay phát tâm làm được việc đại đức, tương lai nếu cậu có khó khăn gì hãy nhớ đến chùa tìm ta nhé!”
Cậu bé đồng ý rồi vui vẻ rời đi.
(Ảnh: secretchina.com)
Ai ngờ, vừa trở về nhà, vì không nộp đủ tiền bán bánh nướng nên bị ông chủ mắng mỏ thậm tệ rồi đuổi đi. Cậu bé nhất thời chưa tìm được công việc mới, nên ngày ngày lang thang trên đường và cuối cùng trở thành một người ăn mày. Cậu bé chẳng những hàng ngày không được ăn đủ ba bữa cơm mà còn rơi vào tình cảnh vô cùng khốn khó. Hơn nữa, cậu bé còn bị bệnh chốc đầu và mắt cũng bị mù. Đến lúc này thì ngay cả việc ăn xin cũng không còn là việc dễ dàng với cậu nữa, thực sự là đã ở vào bước đường cùng.
Bỗng nhiên cậu nhớ ra, nhớ tới lời vị hòa thượng nói, chợt cậu cảm thấy tìm được “đường sống trong cõi chết”. Thế là cậu từng bước, từng bước tìm đến ngôi chùa kia.
Lúc này vị lão hòa thượng đã tu thành, đã chứng được “ba minh sáu thông” nên ông biết rõ cậu bé ăn mày sẽ đến chùa để cầu viện. Ngay vào lúc ban đêm hôm trước, ông đã triệu tập mọi người trong chùa và nhắn nhủ: “Ngày mai có vị “đại hộ pháp” tới chùa, mọi người hãy mở cửa chùa cung kính nghênh đón, không thể sơ suất!”
Mọi người nghe xong, ai nấy đều khó hiểu, người nào cũng tò mò không biết rốt cuộc là ai sẽ đến chùa vào ngày mai. Họ nhìn vị lão hòa thượng lại thấy bộ dạng của ông không phải là nói đùa, nên đã nhịn không được mà tranh nhau hỏi vị hòa thượng người muốn đến chùa là ai? Vị hòa thượng phất ống tay một cái rồi nói: “Dù thế nào cũng nhất định có người đến là được!”
Ngày hôm sau, tất cả các vị sư trong chùa đều chuẩn bị nghênh đón người “đại hộ pháp”, nhưng mãi đến tận tối mà vẫn không thấy ai tới chùa. Vị sư tiếp khách nghi nghi hoặc hoặc tới hỏi vị lão hòa thượng: “Thưa thầy, không có vị đại hộ pháp nào tới chơi ạ!” Vị lão hòa thượng nghiêm mặt hỏi lại: “Chẳng lẽ hôm nay không có bất kể một người nào đến chùa sao?”
Vị sư tiếp khách trả lời: “Không có một ai ạ! Chỉ có…chỉ có một tên ăn mày nhỏ nhỏ mò mẫm tới mà thôi. Tên ăn mày đó muốn vào nhưng con sợ hỏng mất buổi đại lễ tiếp khách nên đã cho hắn mấy cái bánh rồi đuổi đi rồi ạ!”
Lão hòa thượng hai mắt mở to rồi nói lớn: “Người này chính là “đại hộ pháp” của chúng ta, mau mời vào! Mau mời ngay vào! Mau chóng đuổi theo để mời vào!”
Vị sư tiếp khách nghe thấy liền kinh ngạc, vẻ mặt biểu lộ sự băn khoăn nhưng lại không dám cãi lời sư trụ trì, đành phải lập tức xuống núi truy tìm.
May là cậu bé bị mù lòa nên đi chậm chạp, không lâu sau thì các sư cũng tìm thấy cậu. Họ đưa cậu về chùa, chăm sóc và để cậu ở lại chùa.
Nhưng thật không ngờ, một đêm nọ, cậu bé mù lòa đi vệ sinh không may bị rơi xuống hầm cầu mà chết đuối.
Tin tức được truyền ra ngoài, rất nhiều người biết tin và cảm thấy thật bất công với cậu: “Mọi người nói xem, làm gì có nhân quả báo ứng ở trên cõi đời này đây? Cậu bé vốn có nghề bán bánh nướng, cuộc sống tương đối tốt. Cậu lại hết lần này đến lần khác hành thiện tích công đức thế mà về sau lại toàn gặp vận xấu. Đầu tiên là bị đuổi việc trở thành ăn mày, tiếp đến là bị mù lòa, thật khổ sở mới tới được chùa sinh sống thì lại bị rơi xuống hầm cầu mà chết đuối. Mọi người nói đi, nhân quả là cái gì?”
Cuối cùng những lời nói này cũng tới tai vị lão hòa thượng. Lão hòa thượng bèn cho mời rất đông mọi người tới, ông giảng rõ cho mọi người về “tam thế quả báo”: “Cậu bé kia căn cứ vào nghiệp lực trong quá khứ, nên phải chịu ba đời thống khổ.
Đời thứ nhất chính là phải chịu chốc đầu, đời thứ hai là bị mù lòa, đời thứ ba là bị rơi xuống hầm cầu mà chết. Nhưng, cậu bé một lòng từ bi, phát tâm làm đại công đức, nên nghiệp lực kia sớm được rút ngắn đi, cậu ấy chỉ phải trả những nghiệp lực đó trong một đời này thôi. Cậu đã được rút ngắn đi hai đời phải chịu thống khổ. Hiện tại cậu ấy đã được siêu sinh rồi!
Nhân quả đều hiện rõ ra đầy đủ cả, sao có thể nói là không báo không ứng đây?”
Mọi người nghe xong đều xúc động vô cùng, cảm thấy tam thế nhân quả thật không thể tưởng tượng nổi.
Có câu như này: “Giả sử bách thiên kiếp, sở tác nghiệp bất vong; nhân duyên tế ngộ thì, quả báo hoàn tự thụ”, ý nói là hạt giống hành thiện, hành ác dù trải qua bao nhiêu năm tháng, vẫn sẽ sinh trưởng trong bùn đất, một khi nhân duyên tụ hợp, thời cơ chín muồi, có ánh mặt trời, không khí, giọt sương, nó sẽ lập tức đâm trồi nảy lộc, ra hoa và kết quả, tự thụ tự báo!
Theo Secretchina - Mai Trà biên dịch
Cuối Cùng Khoa Học Cũng Phải Thừa Nhận Nhân Quả Luân Hồi - Báo Ứng Hoàn Hoàn Có Thật
Nói về quan hệ nguyên nhân – hệ quả, nhiều người đều sẽ gật đầu tán đồng bởi vì thế giới vật chất là có quy luật.
Ví dụ, nếu cứ mãi đổ những chất thải thì sẽ làm ô nhiễm nguồn nước, chặt phá cây cối bừa bãi sẽ khiến đất cát bị rửa trôi…
Nhưng quy luật nhân quả tuần hoàn mà mắt người bình thường không thể quan sát trực tiếp thì lại khiến một số người bán tín bán nghi.
Đại học Gaddaf (Anh) và trường Đại học Texas (Mỹ) đã cùng thực hiện một nghiên cứu và chứng minh được rằng “ác hữu ác báo” là hoàn toàn có căn cứ khoa học.
Theo thống kê cho thấy, những tội phạm tuổi thiếu niên thường có cơ thể khỏe mạnh hơn những thiếu niên biết tuân thủ pháp luật ở cùng độ tuổi. Nhưng sau khi họ bước vào tuổi trung niên thì tình hình sức khỏe lại xuống dốc nhanh chóng, nguy cơ nằm viện và bị tàn tật cao hơn nhiều lần so với người bình thường. Điều này khá dễ hiểu, rất có thể là có quan hệ tới thói quen sinh hoạt không tốt và trạng thái tâm lý tạo thành.
Nghiên cứu của các nhà khoa học còn phát hiện một hiện tượng kỳ lạ khác. Khi trong tâm hồn người ta tồn giữ thiện niệm và suy nghĩ tích cực thì cơ thể sẽ tiết ra một chất truyền dẫn giúp tế bào được khỏe mạnh. Tế bào miễn dịch cũng trở nên hoạt bát hơn, bởi vậy người ta sẽ không dễ ốm đau, bệnh tật.
Nếu thường giữ trong mình những suy nghĩ chân chính thì hệ thống miễn dịch của con người sẽ rất mạnh mẽ, không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào của thuốc men. Khi trong tâm lưu giữ ác niệm, ý định xấu thì hệ thống thần kinh cũng sẽ chịu ảnh hưởng ngược lại. Tức là những nhân tố tiêu cực bị kích hoạt và khởi động, còn các yếu tố tích cực lại bị ức chế, cơ chế lành mạnh của cơ thể bị phá hoại.
Vậy nên những người lương thiện quả thực thường sống khỏe mạnh và trường thọ. Còn những kẻ hành ác lại phải chịu những dày vò về thể xác khi chỉ mới bước qua tuổi trung niên.
Tư tưởng tiêu cực khiến cơ thể phát sinh độc tố
Trên một tạp chí của Mỹ từng đăng tải một báo cáo nghiên cứu với chủ đề: “Tâm trạng xấu sinh ra chất độc”.
Trong bản báo cáo nói rằng: “Theo thí nghiệm trong phòng thực nghiệm tâm lý, thì ác niệm của con người chúng ta có thể dẫn tới những thay đổi về chất hóa học trong sinh lý, sẽ sinh ra một loại độc tố trong huyết dịch. Khi con người ở trạng thái bình thường, hà hơi vào trong một cốc đá lạnh thì sẽ đọng lại một thứ vật chất trong suốt không màu.
Còn khi con người ở trong trạng thái oán hận, giận dữ, khiếp sợ, đố kỵ thì thứ vật thể đọng lại sẽ lần lượt cho ra những màu sắc khác nhau. Thông qua phân tích hóa học cho thấy, tư tưởng tiêu cực của con người sẽ khiến bên trong cơ thể người ấy sinh ra độc tố”.
Gần đây, trường Đại học Yale và Đại học California đã tiến hành một nghiên cứu với chủ đề “Mối quan hệ xã hội ảnh hưởng như thế nào tới tỷ lệ tử vong”.
Các chuyên gia đã chọn ra ngẫu nhiên 7.000 người và tiến hành theo sát điều tra trong vòng 9 năm. Thống kê cho thấy, những người vui vẻ giúp đỡ người khác và sống hòa hợp có trạng thái sức khỏe và tuổi thọ dự đoán tốt hơn nhiều so với những người luôn có ý nghĩ xấu, lòng dạ hẹp hòi, và gây tổn hại tới lợi ích của người khác.
Tỷ lệ tử vong của những người mang ác tâm cao hơn người bình thường từ 1,5 – 2 lần. Kết quả nghiên cứu này cũng đúng với người ở các dân tộc, giai tầng khác nhau có các thói quen rèn luyện sức khỏe khác nhau.
Cuối cùng, các nhà khoa học kết luận: “Hành thiện có thể kéo dài tuổi thọ của con người”.
Nhiều thực nghiệm khác cũng rút ra kết luận tương đồng. Tức là trạng thái tư tưởng thuần tịnh, từ bi, tích cực có thể khiến sinh mệnh khỏe mạnh, hạnh phúc.
Còn những người có ác niệm sẽ khiến kết cấu cơ thể mất cân bằng và kèm theo diễn biến bệnh lý. Đây được coi là phát hiện trong lĩnh vực sinh lý y học.
Tư tưởng tiêu cực khiến cơ thể phát sinh độc tố. Ảnh (homeofgrace.org)
Nếu Khổng Tử từng nói “Nhân giả Thọ” (Người có lòng nhân thường sống thọ), thì trong những sách y học cổ cũng từng giảng: “Chính khí tồn nội, tà bất khả can” (Trong lòng tồn giữ chính khí thì tà không thể can nhiễu).
Những người vô thần cũng thường nói, đây chỉ là tác dụng ám thị về ý thức tâm lý. Họ cho rằng, đạo đức là do con người đặt ra, không hề có một tiêu chuẩn cố định nào. Thiện ác cũng không có tiêu chuẩn cố định, người tốt hay người xấu cũng do con người tự mình định nghĩa mà thôi.
Nhưng thực tế lại hoàn toàn ngược lại. Nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học phát hiện rằng thiện và ác có những tần số năng lượng khác nhau, những đặc tính vật chất khác nhau. Những đứa trẻ vừa chào đời không lâu, chưa từng trải qua sự giáo dục nhưng đều đã có bản tính lương thiện của mình.
Khi muốn nói dối, bắt nạt người khác, dẫu vẻ mặt người ta ổn định thế nào, không để lộ cảm xúc ra sao nhưng trạng thái tâm lý đều sẽ biến đổi một cách không thể tự chủ.
Nghĩa là trạng thái tâm lý này vận hành một cách khách quan, không tùy thuộc vào việc người ta nghĩ gì, điều khiển ý thức ra sao. Nguyên lý ấy đã được người ta đưa vào ứng dụng cho các máy dò nói dối, máy trắc nghiệm tâm lý.
Bí ẩn của nước cho thấy vạn vật đều có linh
Đầu thế kỷ 21, nghiên cứu về trạng thái kết tinh của nước đã gây chấn động toàn thế giới cho thấy khái niệm thiện ác trong tự nhiên hầu như đã có tiêu chuẩn khách quan, không phải điều hư cấu mà bản thân con người tạo ra.
Khi nước được tiếp xúc với những tín hiệu tốt như sự từ bi, bác ái, hạnh phúc, khích lệ hoặc khi ở trong một trường năng lượng âm nhạc mỹ diệu, kết tinh của nước sẽ thể hiện ra những hình dạng lung linh, kỳ diệu và chắc chắn. Còn nếu khi nước tiếp xúc với những thông tin tiêu cực, thì cấu tạo của kết tinh nước lại biến dị, cong vẹo, thậm chí là phân tán không thể thành hình.
Nước là cội nguồn của sinh mệnh, trong cơ thể người có hơn 70% vật chất đều là nước. Khi con người ở những trạng thái khác nhau, tích cực hay tiêu cực, thì cơ thể của họ có thể cũng đang xảy ra sự biến đổi y như tinh thể nước vậy.
Con người khi làm việc xấu, không đối xử tốt với ai, nếu đời này chưa thể chịu báo ứng ngay lập tức thì rất có thể sẽ tiếp tục phải bồi hoàn ở đời sau, cho tới khi bồi hoàn hết thảy mọi nghiệp lực.
Thậm chí những vai diễn người ấy đóng khi đầu thai chuyển sinh cũng có quan hệ trực tiếp tới sự tích lũy nghiệp lực của đời trước.
Điều này cũng giống như một câu nói cổ của người Á Đông: “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo, không phải không báo, là chưa đến lúc. Khi nào đến lúc, thứ gì cũng báo”.
Đây không phải chỉ là thuyết giáo hoang tưởng. Trong lịch sử trong những câu chuyện có thật xảy ra nhiều vô kể. Chúng soi chiếu lẫn nhau, cùng với khoa học chứng thực ngày nay đang từng bước chứng minh rằng quy luật nhân quả là hoàn toàn có thực.
Phía sau thế giới vật chất đều tồn tại đặc tính vận hành của vũ trụ
Vì sao sau khi con người làm việc xấu lại gặp phải báo ứng? Phía sau những hiện tượng bề mặt của thế giới vật chất này, phải chăng có bàn tay của tạo hóa mà chúng ta không nhìn thấy đang an bài tất cả những điều này?
Cổ nhân có câu rằng: “Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà khó lọt”, “Thiện ác nếu không báo, càn khôn ắt vị tư”.
Phép vận hành của vũ trụ là công bằng, đó là một sự đảm bảo khiến vòng chu chuyển được ổn định, có thể cân bằng hết thảy mọi loại vật chất, khiến cho người lương thiện nhận được phúc báo, kẻ xấu phải chịu ác báo.
Nhưng vì sao những người làm việc xấu lại phải gánh chịu tai nạn, ma nạn và quả báo? Vì sao lại để người tốt được điều tốt, mà không phải là để người xấu được điều tốt?
Điều này phải chăng đã tiết lộ một sự thực lớn hơn rằng: Phía sau thế giới vật chất chắc chắn có tồn tại quy luật hoặc thứ gọi là đặc tính vận hành.
“Thiện” chính là phù hợp với đặc tính này nên mới được dài lâu. “Ác” vì đi ngược đặc tính của vũ trụ và đạo pháp căn bản nên dễ chuốc lấy bại vong. Điều ấy cũng giống như Lão tử nói: “Thiên đạo không có người thân, thường ở với người hiền” (Thiên đạo vô thân, thường dữ thiện nhân).
Dẫu hàng trăm hàng nghìn năm trôi qua, thiện ác hữu báo vẫn luôn được truyền miệng, được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Rất nhiều cuốn sách cổ cũng đều ghi chép lại một lượng lớn những ví dụ có thực vô cùng sinh động, có thể chứng minh tính chân thực của thiện ác hữu báo. Nhưng quá trình người thiện nhận báo đáp, người ác nhận báo ứng thì lại không mấy rõ ràng. Rốt cuộc thì không ai nhìn thấy mối quan hệ chuyển hóa trong quá trình này, mà chỉ đơn thuần nhìn thấy kết quả báo ứng mà thôi.
Giữa sự cho đi và báo đáp có quá trình chuyển đổi bí mật với một nguồn năng lượng thần kỳ
Ảnh minh họa
Nhân viên nghiên cứu đã chế định một bảng trắc nghiệm chi tiết và giám sát trường kỳ những người thích cho đi và những cách “báo đáp” khác nhau cho từng kiểu “cho đi” đó. Những người có trái tim nhân hậu, thích hành thiện, bố thí quả thực có năng lực xã hội, phán đoán và cảm xúc đều thăng hoa toàn diện.
Dẫu chỉ là những hành động đơn giản như mỉm cười từ đáy lòng với người khác hay một nét mặt hài hước, thân thiện cũng đều khiến nồng độ protein của tế bào miễn dịch có trong nước bọt tăng lên.
Sau khi tổng kết số liệu của các báo cáo công phu trong suốt một thời gian dài, họ đã có được thông tin khiến người ta kinh ngạc.
Những hành động lương thiện của con người, ví như khen ngợi, khoan dung, dũng cảm, hài hước, tôn trọng, đồng cảm, trung thành… cho thấy: Giữa sự cho đi và báo đáp có quá trình chuyển đổi bí mật với một nguồn năng lượng thần kỳ.
Tức là khi một người cho đi thì năng lượng báo đáp đồng thời sẽ quay trở về người này theo các hình thức khác nhau.
Điều này là hoàn toàn khoa học, hết sức thực tại, chỉ là trong đa số tình huống như vậy bản thân người “cho đi” không hề biết gì, không có cảm nhận gì.
Khi tĩnh tại, quá trình lão hóa đại não có thể bị “đảo ngược”
Trên thực tế, trong cuốn “Hoàng Đế nội kinh”, tác phẩm y học nổi tiếng của Trung Quốc cổ đại đã nói: “Tĩnh thì tàng thần, nóng thì tiêu vong”.
Tinh thần con người ở trong trạng thái nhẹ nhàng, trầm tĩnh thì có thể tồn giữ chân khí trong tâm, được bình an. Kỳ thực, ý nghĩa của tĩnh rất rộng lớn, không chỉ đơn là sự thuần tĩnh tại bất động.
Tĩnh chính là trong ma sát với những nhân tố bên ngoài, người ta có thể dùng trái tim khoáng đạt mà bao dung, thứ tha cho người khác. Đó hoàn toàn là một trạng thái vượt xa với cái cách người ta tranh đấu kịch liệt hay xổ ra một tràng những lời miệng lưỡi sắc nhọn như đao kiếm khiến người khác tổn thương.
Nghiên cứu khoa học hiện đại chứng minh rằng sau khi con người nhập tĩnh, đại não có thể quay trở lại trạng thái sóng điện của thời ấu thơ, khiến quá trình lão hóa tạm thời bị “đảo ngược”.
Thiện ác hữu báo là nền tảng sinh tồn của nhân loại
Khoa học chứng thực hiện đại rất chú trọng tới căn cứ. Chỉ khi có một lượng lớn những căn cứ khoa học, con người mới thừa nhận và nhận thức một loại sự vật nào đó. Điều đó đã khiến rất nhiều truyền thống lưu lại từ những niên đại xa xưa, vì sự hạn cuộc của biện pháp tìm kiếm khoa học, mà luôn bị nhân loại bài xích và dị nghị. Thiện ác hữu báo cũng là một trong số những ví dụ đó.
Tuy vậy, từ những nghiên cứu khoa học này có thể thấy được rằng, thiện ác hữu báo đã trở thành quy luật nền tảng vận hành cho toàn bộ xã hội nhân loại.
Các nhà khoa học cũng chứng minh rằng niềm tin vào thiện ác hữu báo của cổ nhân hoàn toàn không phải là những mê muội, phong bế trong tư tưởng. Trái lại, đó là cái nhìn vô cùng khoa học, nhắm thẳng vào bản chất của sinh mệnh và vũ trụ.
Theo Ispot.newsNhã Văn biên dịch
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét