=> Hơn 26TK trước, Như Lai đắc quả vị sau 49 ngày thiền định thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác... của cõi Trời người.
- Mấy chục năm trước, khi còn là "ông chủ" con cũng chứa đầy tham sân... Hữu duyên nghe/xem được Chánh pháp/kinh tạng qua băng đĩa/Mp3..., xem/nghe nhiều rồi tập tành dần buông bỏ sanh y (dẫn tâm vào đạo), chuyển ăn thực vật, rồi sống thuần chay, giữ 5 giới & chọn hành thiền, ăn ngày cũng chỉ 1 bữa... tinh tấn gần 2 tháng đã tịnh chỉ được hơi thở, mở được một cánh cửa "Nhị thiền", buông hẳn lòng tham ái, nhờ đó nhịp sống hàng ngày luôn có trường từ (bi) cùng niềm hỷ lạc, an yên... Tín căn cũng từ đây mới thực sự trở nên kiên cố...
Vậy có thể khẳng định thường nhân, người sơ cơ khi có duyên với Phật pháp cần phá bỏ cửa "Vô minh - tức là đọc/xem nhiều kiến thức về Đạo pháp", buông dần sanh y, giữ giới và tu thiền (Thiền quán, chỉ & sổ) là trạch pháp thiết thực, không kể là tu sĩ hay thường nhân khi đã thực hành đạt kết quả thì lòng từ sẽ tự trào dâng, tham sân si được xả ly, đời sống an yên giải thoát ngay liền thiết thực.
Ngày nay đạo đời suy đồi... để làm trong sạch đạo pháp thiết nghĩ "Nhà nước" cần thống nhất những bộ Kinh Tạng cổ xưa, gần nhất thời Đức Phật lịch sử nhập diệt..., giúp tăng ni tu sĩ, Phật tử tu học (bỏ kiểu tu học,"bằng cấp" lý thuyết năm cha ba mẹ). Những tu sĩ giả danh không giữ giới/ phạm giới cần tẩn xuất khỏi chùa (buộc hoàn tục, truy cứu), Trú xứ buộc phải đổi tên..., cấm không đặt tên là chùa hay tu viện Phật giáo (làm ngộ nhận).
=> Những vị tu sĩ có pháp lạp cao khi được bầu bán chức sắc, sắp xếp ngồi trụ trì, rao giảng, cần kiểm tra về khả năng hành thiền và các tầng thiền (Giới sanh Định..., không buông bỏ sanh y, giữ giới. thiểu dục tri túc sẽ không thể nhập được các tầng thiền).
- Các tu sinh khi tốt nghiệp các trường Phật học cũng buộc phải nhập được & chứng đắc thiền (cấp thất nhất phải là nhị thiền).
- Các tu sĩ khi làm Phật sự có giới tất sẽ xiển dương được chánh pháp, giúp tín căn của bá tánh được kiên cố, chánh pháp hưng thịnh, trường tồn: "Tốt đạo mới đẹp đời". (vì chiếu theo giới luật mới loại bỏ được tà tăng, ma tăng. phàm tăng).
NAM MÔ PHẬT!
Thiền Chỉ - Thiền Quán
Bốn Mươi Ðối Tượng Thiền Quán
Có hai hình thức thực hiện Thiền định của Phật giáo gọi là Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana). Các hành giả thường có chủ trương hành ròng Thiền quán, có người chủ trương hành ròng Thiền chỉ, có người chủ trương hành Chỉ Quán song tu, có người đặt nặng Thiền chỉ, có người lại đặt nặng Thiền quán. Các chủ trương ấy đều đúng cả, nhưng chỉ thích ứng với một số căn cơ nào đó, mà không phải thích ứng với mọi căn cơ. Hình thức thực hiện Thiền định thiện xảo nhất là hành Chỉ Quán Song Tu (tu tập xen kẻ Chỉ và Quán). Cứ xét kỹ 37 phẩm trợ đạo ta sẽ thấy rõ điều đó.
Trong Tứ Niệm Xứ, mỗi đối tượng thân, thọ, tâm và pháp đều có hai phần thực hiện: chỉ và quán. Phần quan sát, theo dõi các đối tượng gọi là Thiền chỉ, phần quán tánh sanh diệt trên mỗi đối tượng gọi là Thiền quán.
Trong Tứ như ý túc, Tâm định là thuộc Thiền chỉ, Tư duy định là thuộc Thiền quán.
Trong Năm căn và Năm lực, chi phần Niệm chính là Bốn Niệm Xứ gồm đủ Thiền chỉ và Thiền quán.
Trong Bát Thánh Ðạo, Chánh niệm tương đương với Tứ Niệm Xứ, Chánh tư duy thì tương đương với Thiền quán. Nói tóm, Ðạo đế hay con đường Thiền định của Phật giáo là con đường tu tập rất quân bình của Chỉ và Quán.
Thiền Chỉ
Nếu bạn dừng suy nghĩ và để tâm theo dõi hơi thở vào ra, hoặc để tâm dừng trú trên một đối tượng nhất định với chánh niệm tỉnh giác, thì đây gọi là Thiền chỉ. Thiền chỉ là phần tu tập giữ tâm lý ở trạng thái tĩnh có tác dụng đối trị các tâm lý dao động, trạo cữ, đối trị với các vọng niệm thường khởi lên những ham muốn, những ưu tư v.v... Hành Thiền chỉ, bạn dễ đi vào thân an và tâm an, và do đó dễ đi vào định.
Trong Bảy giác chi, Niệm giác chi là chi phần quân bình động tĩnh; Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi và Hỷ giác chi là thuộc phần động; Khinh an giác chi, Ðịnh giác chi và Xả giác chi là thuộc phần tĩnh, thuộc Thiền chỉ.
Thông thường, khi nào tâm lý hành giả dao động, bồn chồn, hân hoan thì hành giả nên đề khởi Thiền chỉ, tránh đề khởi Thiền quán. Bấy giờ nếu hành Thiền quán thì tâm lý sẽ trở nên động hơn, khó phát triển định lực.
Theo dõi hơi thở vào ra, hay theo dõi thân nhiệt, chỉ ghi nhận mà không tư duy và không có phản ứng tâm lý nào đối với thân hành là hành Thiền chỉ về niệm Thân.
Theo dõi các cảm thọ trong tự thân, cảm thọ như thế nào thì ghi nhận như thế ấy - hỷ, lạc hay không hỷ không lạc, hoặc các cảm thọ sầu, ưu khác... - mà không có tư duy về các cảm thọ, cũng không có phản ứng tâm lý đối với các cảm thọ ấy, là hành Thiền chỉ về niệm Thọ.
Theo dõi các sinh khởi của tâm lý mình - tâm lý tham khởi, sân khởi, si khởi hay không tham, không sân, không si khởi - và chỉ ghi nhận sự có mặt các tâm lý ấy mà không có phản ứng tâm lý khác tiếp theo và không tư duy, phân tích các hiện tượng tâm lý ấy là hành Thiền chỉ về niệm Tâm.
Lắng tâm trú niệm trên một cảnh vô thường, khổ đau hoặc diệt nào đó đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng mình, hoặc để tâm trên các quá trình của tâm - vật lý, hay để tâm chú ý trên hình ảnh của chiến tranh, của lá đổ v.v... mà không tư duy phân tích các hiện tượng ấy là hành Thiền chỉ về niệm Pháp.
Trú tâm trên hình ảnh của Thế Tôn, trên những đức tánh và đức tướng của Thế Tôn, hoặc trú tâm trên hình ảnh của một gương mẫu thanh tịnh xuất thế nào đó, cũng là hành Thiền chỉ.
Ðể niệm theo dõi ảnh tượng êm đềm của thời thơ ấu, của các cảnh trời được diễn đạt trong kinh điển v.v... cũng là hành Thiền chỉ.
Ðể tâm lắng tỉnh và yên lặng dừng lại ở niệm từ bỏ, ở niệm không ham muốn cảnh đời phiền trược là hành Thiền chỉ về niệm Pháp.
Thường thì các hành giả trong giai đoạn đầu tu tập nên hành Thiền chỉ hay nặng về Thiền chỉ để lắng đứng các vọng đọng của thân và tâm trước khi hành chỉ quán song tu hay đi sâu vào Thiền quán. Ở Thiền chỉ, bạn huấn luyện niệm lực vừa định lực để có khả năng tập trung và quan sát sắc bén, sau đó mới có hy vọng phát triển Thiền quán.
Nếu tâm lý thích ứng với Thiền chỉ thì bạn có thể hành Thiền chỉ liên tục cho đến khi nào còn thấy cần thiết và còn dẫn đến kết quả tốt. Nếu không phải là căn tánh đó, thì giai đoạn đầu tu tập là giai đoạn trừ ngũ cái bạn cần để khởi Thiền chỉ hay Thiền quán thích ứng với việc đối trị từng chi phần của ngũ cái và thích ứng với tâm lý bạn từng lúc ngồi Thiền.
Ðặc biệt đối với căn tánh tư duy quá nhiều thì pháp môn Thiền chỉ như là pháp môn được chọn lựa thực hiện để quân bình tâm lý.
Những lúc cần tĩnh dưỡng sức khỏe để phục hồi năng lực, bạn hành Thiền chỉ. Nếu bạn ngồi Thiền giữ chánh niệm đi ra khỏi trạo cử và hôn trầm, và chỉ chờ các vọng niệm khởi lên thì bạn xóa, thì đây là hình thức Thiền chỉ. Nhưng bạn cần tỉnh giác để biết rằng tâm tịnh chỉ đến một mức độ nào đó bạn cần phải đề khởi Thiền quán để có thể đi sâu và nhanh vào Thiền định, vào việc loại trừ dần các kiết sử. Thiền quán mới là sắc thái trí tuệ đặc biệt của Thiền định Phật giáo.
Thiền Quán
Nếu theo dõi phân tích một đối tượng, dù đối tượng đó là hơi thở hay Năm triền cái, Năm uẩn, Mười hai giới, Bốn đại, Bảy giác chi hay Bốn Thánh Ðế, và cái nhìn tư duy vận chuyển trên nền tảng Duyên khởi hay Ba pháp ấn, thì đó là Thiền quán. Nói giản dị, Chánh tư duy (tư duy về pháp, về không tham, không sân, không si, không hại) là Thiền quán. Nếu chỉ đơn thuần tư duy mênh mang trong các pháp "thế gian" thì chỉ gọi là tư duy mà không phải là Thiền quán.
Nếu tư duy phân tích về tánh sanh khởi và đoạn diệt của thân hành thì gọi là Thiền quán về Thân hành.
Nếu tư duy, phân tích tánh sanh khởi và đoạn diệt của các tâm lý tam, sân, si, vô tham, vô sân, vô si thì gọi là Thiền quán về Tâm.
Nếu tư duy, phân tích để hiển lộ tánh vô ngã, vô thường, tánh hoại diệt, khổ đau của các pháp, thì gọi là Thiền quán về các Pháp.
Nếu tư duy, phân tích các pháp để ly tham ái, ly chấp thủ thì cũng gọi là Thiền quán về các pháp. Theo dõi đường hơi thở vào, hơi thở ra và cái thấy biết về thân, tâm của sự theo dõi cho đến khi bừng tỏ sự thật rằng: không có một tự ngã nào có mặt trong quá trình vật lý, tâm lý ấy, và không có một tự ngã nào gọi là ông A, bà B đang hành Thiền cả, thì đây được gọi là hành Thiền Quán. Lập đi, lập lại công phu này cũng gọi là hành Thiền quán.
Theo truyền thống của kinh tạng Nikàya (Kinh Bộ) và kinh tạng A-hàm, hành giả chỉ hành Thiền quán hữu hiệu để loại trừ các kiết sử sau khi đắc Tứ Thiền sắc định hay ít nhất là Sơ Thiền, Nhị Thiền hay Tam Thiền. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu rằng con đường vào giải thoát nói gọn là Bát Thánh Ðạo, mà hai chi phần Chánh kiến và Chánh tư duy là thuộc Tuệ uẩn, thuộc Thiền quán, nên trước khi vào Sơ Thiền, chúng ta có thể hành Thiền quán xen kẻ vào Thiền chỉ để dễ loại trừ dục, sân và nghi triền cái. Thiền quán lúc bấy giờ chỉ được thực hiện vừa đủ, nếu nghiêng nặng Thiền quán lúc bấy giờ thì dễ rơi vào trạo cử, chậm vào định. Thiền quán sau khi rời Tứ Thiền là bước thực hiện quyết định để loại trừ tận gốc rễ các kiết sử, tham ái và vô minh.
Suốt lộ trình hành Thiền định, bất cứ khi nào tâm lý ở trạng thái tỉnh hay thụ động như khinh an, xả, định ... thì hành giả cần để khởi Thiền quán mới phát triển được tâm.
Bạn có thể thực hiện Thiền quán trong các sinh hoạt hằng ngày bất cứ khi nào bạn muốn và bạn có thể. Ðấy là phương cách bạn quan sát và phân tích sự vật với niệm giác tỉnh.
Truyền thống tu tập thường ghi lại bốn mươi đối tượng tu tập Thiền quán dành cho sáu căn tánh khác nhau.
Sáu căn tánh nỗi bật của con người là:
1. Căn tánh tham ái (ràga carita).
2. Căn tánh sân hận (dosa carita).
3. Căn tánh si mê (moha carita).
4. Căn tánh về đức tin (saddhà carita).
5. Căn tánh tri thức, luận giải (buddhi carita).
6. Căn tánh phóng đảng (vitakka carita)
Bốn mươi đối tượng Thiền quán bao gồm:
1. Mười đối tượng liên hệ đến các vật có tướng trạng như: đất, gió, lửa, vật màu xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng và không gian.
Về đất, bạn có thể phân tích về tính duyên sinh của nó, có thể quan sát tính nhẫn chịu, không dính mắc hay tính thanh tịnh của nó như các chất nhơ không thể làm bẩn được đất, như các loài thực vật có thể sinh sống từ đất v.v... để bạn giác tỉnh rằng cái tánh của tâm mình cũng thế.
Về nước, tương tự, các chất nhơ cũng không có thể làm nhơ được nước, nước dung chứa tất cả và nhẫn chịu tất cả. Tâm của con người cũng vậy.
Về gió, không có gì có thể làm nhơ được gió, gió thổi qua tất cả mà không dính mắc. Tâm của con người cũng vậy.
Về lửa, các chất nhơ không làm hoen ố được lửa. Lửa đốt cháy tất cả mà vẫn tỉnh lặng, không dính mắc. Tâm của con người cũng vậy.
Chúng ta phải học nhiếp tâm mình theo tánh của đất, nước, gió, lửa.
Về màu sắc, có tâm lý thích hợp với màu xanh, có tâm lý thích hợp với màu đỏ v.v... Bạn hãy quán sát tâm lý của mình thích hợp với màu sắc nào thì bạn chọn vật có màu sắc ấy làm đối tượng Thiền quán. Nếu màu thích ứng tâm lý thì bạn dễ hân hoan đi vào quán niệm; ngược lai, màu chọi lại tâm lý thì bạn sẽ không tập trung được tâm vào Thiền quán, có khi còn bị phản ứng đi vào sầu não, chán nản.
Về ánh sáng, không gian bạn cũng hành Thiền quán tương tự. Ánh sáng và không gian đều thanh tịnh và bủa khắp, không có gì làm ô uế được. Tâm của con người cũng vậy.
2. Mười đối tượng về xác chết như: sình, biến sắc, rã, chảy nước dơ, bị cắt đứt đoạn, bị xé nát, bị bung rời từng mảnh, không nguyên hình thể, đẫm máu, bị dòi rỉa, thi hài chỉ còn cốt.
Quán mười đối tượng xác chất này gọi là quán bất tịnh tướng, chỉ áp dụng để đối trị các tâm tham ái, tham dục: cứ tập trung nhìn, quan sát kỹ mười đối tượng ấy cho đến khi lòng tham dục lắng dịu hẳn. Chỉ nên quán vừa đủ mà không nên đi sâu vào quán pháp này, bởi vì nó có thể dẫn đến phản tác dụng tâm lý khiến hành giả chán nản đến không muốn sống (hay đến độ tự hủy hoại mạng sống).
Với các căn tánh nặng về sân thì tuyệt nhiên không nên hành pháp quán bất tịnh ấy. Với các căn tánh thích sạch và ghét dơ cũng thế.
3. Mười đối tượng suy niệm như: Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới, Thiên, Niết-bàn, Chết, Thân và Hơi Thở vào, ra.
Về Phật, quán niệm nội dung: Ðức Phật là bậc đã chứng ngộ vị giác ngộ cao cả nhất, đã chứng ngộ từ lý Duyên khởi, đã thấy rõ tất cả pháp, đã mở ra con đường giải thoát chưa từng được khai mở, là bậc Thầy cao cả của Trời và Người.
Về Pháp, quán niệm nội dung: Pháp đã được Ðức Phật khéo thuyết giảng, có tác dụng đoạn tận tham sân si, đoạn tận khổ đau. Bản chất của Pháp là ly dục.
Về Tăng, quán niệm nội dung: Tăng là đoàn thể sống hòa hợp, có giới đức thanh tịnh, là những người đang thực hiện con đường giải thoát mà Ðức Phật đã tuyên thuyết, đang hành Ðạo và sẽ thành tựu Ðạo.
Về Thí, quán niệm về tánh khoan dung, vị tha để loại trừ các hại tâm, bất thiện tâm.
Về Thiên, quán niệm cuộc sống thiện dẫn đến quả báo Thiên giới để dìm sâu các dục ái.
Về Niết-bàn, quán niệm nội dung của giải thoát là ái diệt, sân diệt và vô minh diệt, vọng tưởng thức diệt, thủ diệt ..., Niết bàn là pháp vô vi, không sinh diệt.
Về Chết, quán niệm rằng mọi người đều phải chết và có thể chết bất cứ lúc nào thân bị diệt, tuổi thọ diệt hay mạng sống diệt. Quán niệm nhiều lần như thế để thấy vô thường mà nỗ lực hành Thiền định, và để không sợ hãi trước cái chết.
Về Thân, quán niệm tái sanh diệt của thân, quán niệm tánh bất tịnh của thân ... để giác tỉnh đi ra khỏi lòng tham ái, chấp thủ sắc thân của mình và của người.
Về Hơi thở vào hơi thở ra, quán niệm tái sanh diệt của hơi thở vào ra, quán niệm mạng sống của con người treo trên đầu hơi thở, rất là mỏng manh, vô thường. Sự nghiệp cuộc đời của con người cũng mỏng manh như hơi thở: hơi thở vào mà không ra hay hơi thở ra mà không vào là thời điểm khép kín thế giới hiện tại này, bây giờ tất cả chỉ là bóng mộng đối với hành giả.
Tất cả các pháp quán trên đều nhắm đến một mục tiêu duy nhất là đánh thức tâm thức rời khỏi tham ái và chấp thủ.
4. Bốn Thiền vô sắc:
Thiền quán bốn cảnh Thiền vô sắc chỉ thực hiện sau khi đã vào Tứ Thiền sắc giới, nghĩa là lúc tâm thức đã nhuần nhuyễn chỉ còn xả và nhất tâm để đưa vào bốn đối tượng vô sắc.
- Quán niệm "không gian là vô biên" và an trú tâm ở đó.
- Quán niệm "thức là vô biên" và an trú tâm ở đó, sau khi đã vào Không vô biên xứ.
- Quán niệm "không có gì cả" và an trú ở đó, sau khi đã vào Thức vô biên xứ.
- Quán niệm rằng "không có tưởng, cũng không phải là không có tưởng" và an trú ở đó, sau khi đã vào Vô sở hữu xứ.
Căn bản của bốn quán niệm trên là thường giác tỉnh rằng các cảnh giới đang trú là hữu vi nên vô thường và chúng sẽ dẩn đến đoạn diệt, khổ đau. Nhờ niệm giác tỉnh ấy hành giả mới từ bỏ các cảnh giới Thiền vô sắc để đi vào Diệt thọ tưởng định để đoạn tận các lậu hoặc.
Thường thì, để được an toàn, hành giả dừng lại ở Vô sở hữu xứ định và hành giả hành Tứ vô lương tâm (từ, bi, hỷ, xả).
5. Tứ vô lượng tâm:
Tứ vô lượng tâm là đại từ, đại bi, đại hỷ và đại xả. Kinh Bộ (Nikaya) chỉ có vài phẩm Kinh đặc biệt xác định hành giả chỉ tu Bốn vô lượng tâm từ Vô sở hữu xứ định để băng vượt Phi tưởng phi phi tưởng định thẳng vào Diệt thọ tưởng định.
Hành giả quán niệm rải tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả khắp các phương hư không nhiều lần cho đến nhuần nhuyễn thì sẽ được định Diệt thọ tưởng.
Một số kinh khác (của Kinh Bộ và A-hàm) thì chỉ khích lệ hành giả dừng lại ở Tứ thiền sắc định. Tại đó, dùng Thiền quán để loại trừ, đốt cháy các lậu hoặc.
6. Một đối tượng về tưởng (sannà):
Tưởng đến khía cạnh nguy hiểm (vô thường và khổ đau) của bốn loại thức ăn (đoàn thực, tư niệm thực, thức thực và thiền duyệt thực) để xả bỏ hết thảy tham sân.
7. Ðối tượng phân tích, luận giải:
- Phân tích Năm uẩn như đã trình bày ở chương II.
- Phân tích Sáu giới (địa, thủy, hỏa, phong, không gian và thức) và quán sát như thật rằng Sáu giới ấy ở trong thân thể ta và ở ngoài thế giới đều là Duyên sinh, không có tự ngã; chúng không phải là ta, là của ta hay là bản ngã của ta. Quán sát và phân tích như thế để giác tỉnh đi ra khỏi chấp thủ ngã và chấp thủ pháp.
- Phân tích Mười hai nhân duyên: hết thảy các pháp ở trong cũng như ngoài ta đều do duyên sinh nên hữu vi, vô thường và dẫn đến khổ đau. Do vậy, không thể xem chúng là ta, là của ta hay là bản ngã của ta. Mỗi chi phần trong Mười hai chi nhân duyên cũng do duyên mà sinh (do mười một chi phần kia duyên nhau mà sinh). Hết thảy là vô ngã, nên thật là sai lầm nếu ta nhận thấy có bóng dáng của cái ngã ở một nơi nào đó. Thấy vô ngã sẽ rời khỏi chấp thủ ngã. Thấy vô thường, khổ đau sẽ rời khỏi tham ái và sân hận.
Ở vị trí phàm phu, nhờ thấy lý Duyên khởi mà ly dục; ở Tứ thiền sắc định, nương vào tâm thức nhu nhuyến ở đây, hành giả có thể từ pháp quán Duyên sinh để giác tỉnh vào Thánh vị. Ở địa vị hữu học, các bậc Thánh có thể nương vào pháp quán nhân duyên mà đoan trừ hết thảy lậu hoặc, đắc A-la-hán quả.
Từ Thiền quán, hành giả thấy rõ giả tướng của cuộc đời và của các Thiền cảnh. Tác dụng của cái thấy ấy là buông xả ái, thủ. Một nguồn hỷ lạc đầy thanh thoát, giải thoát đến ngay sau cái ấy và sự buông xả ấy tùy thuộc vào cái thấy sâu hay cạn, toàn vẹn hay giới hạn mà sự buông xả sẽ trọn vẹn hay giới hạn. Từ đây, bạn có thể định nghĩa Thiền là buông xả, hay ra đi, hoặc từ bỏ, như ý nghĩa của "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (nên khởi lên niệm không trú trước, không dính mắc, hay không chấp thủ - Kinh Kim Cang), hoặc như lời Tổ dạy "Tọa Bồ- đề tòa, tâm vô sở trước" (ngồi chỗ giác ngộ, tâm không dính mắc).
* * *
Qua phần Thiền quán được trình bày ở trên, bạn có thể đi đến một nhận thức mới về pháp tu đơn giản "Niệm hơi thở vào, hơi thở ra" rằng hình thức đơn giản ấy không còn giản đơn nữa. Trong nó có chứa đựng diệu pháp, diệu nghĩa của giải thoát. Nếu không thế, thì hóa ra pháp tu ấy có ngã tính không đi vào diệu pháp, là một điều trái ngược với sự thật vô ngã.
Thực sự, đi vào pháp hành, bạn sẽ thấy chánh niệm tỉnh giác là trú trên niệm vô ngã, là rời xa khỏi sự chấp trước của tướng ngã, nhơn, chúng sinh và thọ giả (ly tứ tướng), đây là ý nghĩa ba-la-mật. Ðạo đã có mặt ngay tại chánh niệm tỉnh giác theo dõi hơi thở vào ra, có thể nói đó là "niệm hơi thở vào, hơi thở ra" Ba-la-mật. Chỉ vì trong tập thể tâm thức của hành giả đang có mặt nhiều tiếng nói ồn ào của Năm triền cái, của các kiết sử nên hành giả chưa kịp thấy rõ đạo hay chứng ngộ Ðạo. Do vậy, công phu Thiền chỉ trong buổi đầu tu tập là làm lắng dịu và dập tắt đi những tiếng nói ồn ào kia để từ Thiền quán mà làm hiển lộ Ðạo như thật. Từ đây hiện rõ lên rằng: sự khác biệt của người có chánh kiến đang tu tập Thiền định và người đã chứng đắc định và Thánh quả là ở sự có hay không có mặt của những tiếng nói ồn ào nói trên. Nói cách khác, con đường Thiền định là con đường đánh tan sự hoạt náo của Năm triền cái và Mười kiết sử. Bạn không thể mơ màng chờ đợi công phu hành Thiền những gì khác hơn.
Tuy nhiên, giữa phàm phu và Thánh giả, và giữa Thiền chỉ và Thiền quán không hoàn toàn có sự cách biệt, mà là có một cái gì liên tục, xuyên suốt như là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt chuỗi ngọc bích, đó là Chánh niệm tỉnh giác.
Thông thường, cái nhìn, quan sát hay theo dõi các pháp của hành giả chỉ dừng lại ở sự có mặt của tư duy nhị nguyên đầy ngã tính thì chỉ gọi là niệm. Nhưng, khi cái nhìn, quan sát hay theo dõi của hành giả có mặt tính sáng suốt của tâm thức, tính nhận ra vô ngã tính, vô thường tính và khổ tính của các pháp - hay gọi là tuệ (pannà), nhân tố điều chỉnh cho đúng các hành động thân, khẩu, ý và giữ tâm ra khỏi các phiền não, tham, ưu, thì bấy giờ nó được gọi là Chánh niệm. Tánh sáng suốt kia có mặt gọi là Tỉnh giác. Do đó, Chánh niệm luôn luôn đi đôi với Tỉnh giác. Cũng có thể nói Chánh Niệm là Tỉnh giác, hay Tỉnh giác là Chánh niệm.
Nhờ tánh sáng suốt của tuệ có mặt trong từng niệm mà hành giả luôn luôn thấy có mặt của mục đích giải thoát trong từng bước đi, trên con đường đi, và biết chọn lựa đối tượng Thiền chỉ và Thiền quán một cách thiện xảo, thích ứng với điều kiện tu tập của tự thân, hầu để dẫn đến sự phát triển tốt về Thiền định.
Cho đến khi nào mà Chánh niệm Tỉnh giác không còn việc gì để làm nữa, nghĩa là cho đến khi nào mà các phản ứng tâm lý tham ái và chấp thủ bị loại ra hết ngoài cái nhìn, ngoài sự quan sát hay theo dõi các pháp của hành giả, thì cho đến khi ấy khổ đau được hoàn toàn đoạn tận, đấy là đích điểm cuối cùng của lộ trình tu tập giải thoát của Ðạo đế, hay của con đường Thiền định, như Thế Tôn đã dạy:
"Trong cái thấy, sẽ chỉ là cái thấy; trong cái nghe, sẽ chỉ là cái nghe; trong cái thọ, tưởng, sẽ chỉ là thọ, tưởng; trong cái thức tri, sẽ chỉ là cái thức tri. Như vậy là đoạn tận khổ đau". (Tiểu Bộ Kinh I, tr.398, bản dịch của HT . Minh Châu, 1982).
Chính Chánh niệm, Tỉnh giác đã có mặt từ đây đến đó, từ phiền não đến Niết-bàn. Nó như đôi chân của ngỗng trời lội trong dòng sinh tử mà không dính mắc sinh tử, và có tác dụng đưa ngỗng trời qua bên kia bờ sông nó muốn, mà hai câu thơ của nhà sư Việt Nam, sư Pháp Thuận (thế kỷ thứ 10) đã nói đến khi nối tiếp hai câu thơ của Sứ thần Trung Quốc là Lý Giác:
"Bạch mao phô lục thủy
Hồng trạo bãi thanh ba"(Lông trắng phô dòng lục
Sóng biếc chân hồng bơi -- TT. Mật Thể dịch)
Ðể có thể biết thêm về lộ trình tu tập Thiền định, chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường Thế Tôn đã đi qua, đã thân chứng. Và duyệt lại công phu của mình qua bảy bước đi thanh tịnh mà Luận sư Phật Âm (Buddhaghosa) và Hòa thượng Mahasi Sayadaw trình bày trong tập Thăng Tiến Tuệ Giác (The Progress of Insight) mà chúng tôi sẽ trình bày trong chương IV.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét